• http://www.
  • http://www.
  • http://www.
  • http://www.
chuaadida.com
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia
  • Tin Phật Giáo
    • Phật Giáo Úc - Tân Tây Lan
    • Phật Giáo Với Xã Hội
    • Tin Viên Tịch & Tưởng Niệm
  • Sinh Hoạt Chùa A Di Đà
  • Phật Pháp
    • Nghi Lễ
    • Giáo Lý
    • Bồ Đề Tâm
  • Lịch Sử Phật Giáo
    • Nghiên Cứu Phật Giáo
    • Nhân - Vật
    • Phật - Bồ Tát - Thánh Chúng
  • Tam Tạng Kinh Điển
    • Tranh Phật Giáo
    • Sách - Truyện Tích
    • Những Lời Phật Dạy
  • Chuyên Đề
    • Xuân Cửa Thiền
    • Phật Đản - An Cư
    • Vu Lan
    • Pháp Khí
  • Văn Hóa Phật Giáo
    • Thi Ca - Châm Ngôn - Sáng Tác
    • Kiến Trúc
    • Tự Viện
  • Môn Phong Pháp Phái
    • NGỮ LỤC
    • Giai Thoại Nhà Thiên
    • Tổ Sư
Thông tin liên hệ

Tel: (+02) 87046317

Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com

chuaadida.com Kính chào chư Tôn đức, Quí nam nữ Phật tử, Quí thiện trí thức gần xa, Kính chúc Qúy vị An Lành - Phát nguyện: Nổ lực tinh tấn tu hành giải thoát thân tâm khỏi vòng sanh tử. KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC, QUÍ NAM NỮ PHẬT TỬ, QUÍ THIỆN TRÍ THỨC, QUÍ ĐỘC GIẢ GẦN XA, THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ KIẾT TƯỜNG NHƯ Ý
Tìm
  • Trang chủ
  • Chuyên Đề
  • Pháp Khí

Nguồn gốc và ý nghĩa chiếc áo cà sa của đạo Phật

Chùa A Di Đà | 3/10/2014 | 0 Bình luận

Không như pháp phục của những tôn giáo khác, chiếc áo cà sa của đạo Phật không thuần túy chỉ là chiếc y che mình mà đã trở thành một hình ảnh mang tính biểu trưng của Phật giáo.


Chiếc áo cà sa là biểu tượng của đạo pháp, của nhà tu hành, do đó cũng tượng trưng cho những gì trân quý, cao cả và thiêng liêng nhất. Chiếc y cà sa cũng là biểu tượng của phạm hạnh, đức độ, là ánh đạo vàng, biểu trưng cho sự giác ngộ toàn năng nên được tứ chúng phật tử tôn xưng và kính ngưỡng. Đối với hàng phật tử xuất gia, được khoác trên mình chiếc y cà sa để hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần sinh là một hạnh duyên thù thắng mang lại nhiều hạnh phúc, an lành và thành tựu.

Cà sa - dịch từ tiếng Phạn là kasaya tên đầy đủ là cà sa duệ, theo nghĩa đó, kasaya không có ý nghĩa là y áo, y phục mà có nghĩa là bạc màu, cáu cặn hay hư hoại. Sách chữ Hán dịch kasaya là đạm (màu nhạt), trọc hay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch chữ này là hoại sắc, bất chính sắc, hư nát, dính bẩn… Tóm lại, chiếc áo cà sa của người Phật tử xuất gia tượng trưng cho những gì nghèo nàn, thô sơ, giản dị và khiêm nhường nhất.

1. Nguồn gốc của chiếc y cà sa:

Cà sa là tên gọi chung các loại y phục dành riêng cho hàng Phật tử xuất gia. Sở dĩ có sự khác biệt về chiếc y cà sa giữa các tông môn, hệ phái Phật giáo là do tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, môi trường, khí hậu, phong tục, tập quán… ở các khu vực khác nhau nên chiếc y cà sa cũng có những thay đổi cho phù hợp. Điều này chúng tôi xin được trình bày ở phần sau. 

Theo Luật tạng, chiếc y cà sa do đức Phật chế, được hình thành do lúc ban đầu, Tăng đoàn của Phật y áo không khác biệt gì với những người tu hành thuộc các truyền thống tôn giáo khác. Vì thế vua Tần-bà-sa-la (Bimfbisara) của nước Ma-kiệt-đà[i] (Magadha), một đệ tử của đức Phật, mới đề nghị với Phật xin cho các đệ tử được ăn mặc khác hơn để mọi người dễ nhận ra. Vào thời điểm ấy, Phật và người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà[ii] (Ànanda) đang du hành phương Nam để thuyết giảng, Phật thấy những thửa ruộng lúa hình chữ nhật, chia cắt bởi những đoạn bờ thẳng tăm tắp. Phật liền bảo A-nan-đà cứ theo mẫu ấy mà may áo cho Tăng đoàn. Vì thế, chiếc y cà sa mang hình những thửa ruộng, được chắp nối vào nhau bằng những mảnh vải như hình những thửa ruộng được ngăn cách bởi những đoạn bờ. Cũng vì thế trong kinh sách tiếng Hán, chiếc áo cà-sa còn được gọi là cát triệt y, điền tướng ytức là áo hình thửa ruộng. 

Nguồn gốc chiếc y cà sa còn được giải thích bằng một cách khác, đó là xưa kia, theo truyền thống Phật giáo, các nhà sư phải tự đi nhặt những mảnh vải vụn, những tấm khăn đắp hay liệm người chết vứt bỏ ở những nơi hỏa táng, nghĩa địa hay những đống rác, rồi đem về tự mình nhuộm màu, chắp nối và may lấy áo để mặc. Bởi vậy. chiếc y cà sa mới mang hình của các mảnh vải vụn được ráp nối với nhau. Ngày nay, tại một số tu viện lớn ở Srilanka hay Mianma vẫn còn giữ được truyền thống đó. Điều đó cho thấy chiếc áo cà sa là biểu tượng của những gì khiêm tốn, đơn sơ và giản dị nhất mà ta có thể tưởng tượng ra. Nhưng đồng thời điều đó cũng toát lên một ý nghĩa hết sức lớn lao của chiếc áo cà sa trong đạo Phật, đó là để nhắc nhở các nhà tu hành Phật giáo về tấm thân vô thường của họ tại thế gian.

Chiếc cà sa của đạo Phật ngoài tác dụng để che thân còn có tác dụng như một tấm chăn đắp hay dụng cụ để ngồi, vì vậy, chiếc y cà sa còn có tên gọi là phu cụ (dụng cụ để đắp) hay tọa cụ (dụng cụ để ngồi). Kinh Bát nhã có kể chuyện Phật cùng với các đồ đệ sau khi khất thực về, ăn xong, Phật tự lau rửa bình bát, sau đó tự tay xếp áo cà-sa làm tọa cụ và ngồi lên đó để thuyết giảng. Có khi các đồ đệ lấy áo của mình xếp chồng lên nhau để Phật ngồi thuyết pháp.

Y cà sa được may theo hình chữ nhật, chia ra làm ba loại là tiểu, trung, đại. Tiểu y gọi là y An-đà-hội (Antaravasaka) là y mặc bên trong. Y An-đà-hội chỉ có 5 mảnh nên còn gọi là y ngũ điều, cả tấm y gồm mười miếng, cứ 1 miếng dài, 1 miếng ngắn ráp lại vào nhau theo chiều dọc gọi là một điều. Trung y gọi là y Uất-đa-la-tăng (Utarasangha) là y mặc ở trên y An-đà-hội. Y này gồm 7 mảnh nên còn gọi là y thất điều, cả tấm y gồm 21 miếng, cứ 2 miếng dài thì 1 miếng ngắn ráp lại thành một điều. Đại y gọi là y Tăng-già-lê (Sangati) là y đắp ngoài của chư tăng. Y này gồm 9 mảnh nên còn gọi là y cửu điều. Cả tấm y gồm 27 miếng, mỗi hàng hai miếng dài một miếng ngắn ráp lại gọi là một điều. Luật Phật cũng quy định, tùy theo cấp bậc và đạo hạnh mà chiếc y Tăng-già-lê có thể có từ 9 đến 25 điều. Những vị càng đạo cao đức trọng càng có tấm y Tăng-già-lê nhiều điều.

Màu sắc của chiếc y cà sa không nhuộm hẳn bằng một màu nào cả, tránh không dùng năm màu chính là xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, vì vậy, chiếc y cà sa được pha trộn nhiều màu để tạo ra một màu sắc thật giản dị, đúng theo ý nghĩa nguyên thủy của chữ kasaya trong tiếng Phạn. Áo gồm nhiều mảnh, có thể mỗi mảnh một màu, vì đó là những mảnh vải nhặt được và khâu nối với nhau. Ngày nay tùy theo truyền thống của từng pháp phái, địa phương, phong tục, khí hậu… mà chiếc áo cà-sa cũng phần nào có sự cải biến, từ cách may cho đền màu sắc. Ở Ấn Độ và các nước theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy nhuộm y màu vàng; ởViệt Nam, Trung Quốc y cà sa nhuộm các màu vàng, lam, nâu, nâu đỏ; ở Hàn Quốc y cà sa nhuộm màu lam; ở Nhật Bản y cà sa nhuộm màu đen hay nâu đen (màu trà); ở Tây Tạng, y cà sa nhuộm màu vàng nghệ hay nâu đỏ… Nói chung có ba màu chính gọi là như pháp cà sa sắc tam chủng (ba màu sắc của áo cà sa theo phép quy định) gồm màu gần như đen (màu thâm, màu bùn đất), màu gần như xanh (màu rỉ đồng) và màu gần như đỏ (màu hoa quả).

Như trên đã nói, y cà sa xuất phát từ Ấn Độ là xứ nóng nên ngoài 3 y tiểu, trung, đại như đã đề cập không còn loại y nào khác và do đó, y cà sa cũng là y thường phục của chư tăng theo Phật giáo Nguyên thủy. Khi Phật giáo được du nhập vào các quốc gia khác như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… do đây là những xứ lạnh nên y cà sa đã có sự thay đổi để phù hợp với điều kiện môi trường cũng như phong tục, tập quán của từng quốc gia. Ở Việt Nam, Trung Quốc… y phục của tăng đoàn mang nhiều ảnh hưởng của truyền thống may mặc dân tộc, áo ngắn cài khuy làm bằng vải ở giữa, áo dài cài khuy vải ở bên hông, quần may rộng rãi để tiện trong các sinh hoạt… Y cà sa của Phật giáo Bắc tông được khoác trùm lên các y áo trên và chỉ khoác cà sa trong những dịp tổ chức các nghi thức Phật giáo trang trọng, tôn nghiêm chứ không phải là thường phục của tăng ni. Một điều chú ý là đối với hệ phái Phật giáo Bắc tông, chỉ những vị tỳ kheo và tỳ kheo Ni mới được phép mang y cà sa, còn những vị khác không được phép mang y cà sa.

Chiếc y cà sa là biểu tượng cho đạo Phật, cho sự màu nhiệm của Phật pháp chính vì vậy, cũng được gắn cho rất nhiều tên gọi cũng như các công dụng khác nhau, mặc dù ban đầu, chiếc y cà sa chỉ được dùng để che thân, làm chăn đắp hay dùng để ngồi. Theo sách Phật chế tỳ kheo lục vật đồ[iii] thì y cà sa có 12 tên gọi là: 1.Cà sa; 2.Đạo phục (áo của người tu hành theo đạo Phật); 3. Thế phục (áo của người xa rời thế tục); 4.Pháp y (áo theo đúng pháp quy định); 5.Ly trần phục (áo của người thoát tục); 6.Tiêu sầu phục (áo có khả năng tiễu trừ phiền não); 7.Liên hoa phục (áo như hoa sen không nhiễm bùn); 8.Gián sắc phục (áo không dùng năm màu chính để nhuộm); 9.Từ bi phục (áo của người thực hành đức từ bi); 10.Điền tướng y (áo theo hình thửa ruộng); 11.Ngọa cụ (dụng cụ để ngồi); 12. Phu cụ (dụng cụ dùng để đắp). 

Trong kinh Tâm địa quán[iv] thì nêu lên 10 lợi ích của chiếc y cà sa, đó là: Che thân khỏi thẹn ngượng; tránh ruồi muỗi, nóng rét; biểu thị các tướng của sa môn; sinh phúc cõi phạm thiên[v]; nảy sinh bảo tháp tướng diệt mọi tội; màu không rực rỡ không làm nảy sinh lòng ham muốn; vĩnh viễn đoạn trừ phiền não; tiêu trừ tội lỗi, nảy sinh điều thiện; như nơi đất tốt có thể làm nảy sinh lòng bồ đề; như giáp trụ, mũi tên độc phiền não không làm hại được. Hay như trong kinh Bi hoa[vi], nêu lên 5 đức của y cà sa là: Trong tứ chúng, những điều sai trái nặng nề mà biết một lời tâm niệm kính trọng cà sa thì liền được thụ ký tam thừa[vii]; thiên long nhân quỷ nếu cung kính cà sa thì cũng được đắc tam thừa; quỷ thần cũng như mọi người nếu có được một phần nhỏ của chiếc cà sa cũng sẽ được ăn uống no đủ; chúng sinh mắc điều sai trái mà tâm niệm cà sa thì cũng sẽ nảy sinh lòng từ bi; giữa nơi chiến trận, có được mảnh nhỏ cà sa, cung kính tôn trọng vật báu đó thì luôn được chiến thắng.

Chiếc y cà sa, từ tác dụng ban đầu là vật thiết yếu của mỗi người tu sỹ trong cuộc sống tu hành, dùng để phân biệt người tu sỹ Phật giáo với các tôn giáo khác, đã được hình tượng hóa và mang một ý nghĩa thiêng liêng, biểu tượng cho những gì trân quý, cao cả nhất của Phật pháp và giáo pháp. Chiếc y cà sa không chỉ mang ý nghĩa vật chất mà đã chuyên chở các ý nghĩa tinh thần, trở thành pháp bảo độ trì cho những người con Phật tu hành theo đúng chánh pháp.

2. Ý nghĩa của chiếc y cà sa:

Xét theo góc độ ý nghĩa vật chất, chiếc y cà sa được may bằng cách ráp nối những mảnh vải vụn lượm lặt lại với nhau, theo cách này sẽ tận dụng và tiết kiệm vải rất nhiều và có thể thay các miếng khác nhau khi có miếng nào bị rách, hỏng. Và hơn thế, khi chư tăng nhận phẩm vật cúng dàng của phật tử, tùy khả năng của phật tử cúng dàng những mảnh vải lớn hay nhỏ, đều được sử dụng, mang lại lợi ích và không lãng phí. Đó cũng là sự đúc kết kinh nghiệm của các hành giả tu lâu năm trong các tu viện thanh tịnh phải tự lo lượm vải khâu may y phục cho mình. Điều đó cũng nói lên ý nghĩa khiêm nhường và giản dị của chiếc y cà sa. Tăng đoàn chủ trương không có giáo sản, chỉ sống bằng sự bố thí của tín chủ nên không đòi hỏi và sẵn sàng sử dụng những gì được phật tử dâng cúng.

Những người xuất gia tu hành mặc y cà sa hoại sắc cốt để che thân chứ không phải nghiêm sức để chau chuốt cho mình. Tăng đoàn, hoặc là mặc y cà sa chắp vá được từ các mảnh vải thừa nhặt được, hoặc là thụ nhận mọi loại vải dù là thô xấu cúng dường từ thiện tín rồi nhuộm đi để may mặc, cốt sao có y mặc mà thôi chứ không bận lòng phân biệt tốt xấu. Mỗi lần nhìn thấy chiếc y cà sa của mình vị tỳ kheo đều nhớ biết mình là người xuất gia mà lo tinh tấn với đạo nghiệp, nếu bỏ qua điều đó sẽ làm uổng phí đời sống xuất gia, uổng phí thiện tâm của đàn thí. 

Người xuất gia khoác lên người chiếc áo cà sa cũng là để tự kiểm chứng bản thân mình, giúp họ luôn giữ giới, nhắc nhở họ không được tà dâm, sát sinh, trộm cắp, không sân si, bám níu… Chiếc áo ấy đem đến sự an lạc, giúp họ phát lộ lòng từ bi, giúp tăng trưởng trong tâm thức sự can đảm, tinh tấn, sức mạnh và trí tuệ để vượt qua những chướng duyên trên con đường tu tập.

Chiếc y cà sa có nhiều mảnh cũng là sự biểu trưng cho con đường tu tập hướng đến giác ngộ có nhiều thứ lớp, giai đoạn. Đức Phật đã trải qua vô lượng kỳ kiếp để đạt đến chứng quả Bồ đề. Mỗi hành giả đời sau phải liên tục tích lũy công đức, tạo phúc, sửa chữa lỗi lầm, làm cho tâm trong sạch, bảo vệ tăng đoàn trước những nghiệp chướng, biết chờ đợi đủ nhân duyên, đúng thời kỳ mới có được thành tựu. Bởi vậy, các vị tăng ni cao tăng, thạc đức thì mặc đại y đến 25 điều vì các vị đã tích lũy được nhiều công đức còn những vị mới thụ giới thì chỉ mặc đại y 9 điều thôi. Nhìn vào đại y mặc trong những lúc hành lễ cũng có thể nhận biết được phẩm trật thứ lớp trong tăng đoàn.

Tăng đoàn mang trên mình bộ y cà sa như một sự nhắc nhở phải luôn nhớ đến công ơn sâu dày của đàn tín. Các nhà tu hành được thụ thí từ sự cúng dường của phật tử để thanh thản, an tâm lo tu học đó là nhờ công lao khó nhọc biết bao người. Vậy mỗi tỳ kheo phải luôn niệm tưởng và làm sao cho xứng đáng với công ơn đó.

Chiếc y cà sa mang những giá trị tâm linh, là biểu tượng của đạo pháp do đó cũng trở nên nhiệm màu và linh thiêng. Hàng phật tử xuất gia đủ hạnh duyên được khoác lên mình chiếc y cà sa sẽ có thêm sức mạnh để ngăn ngừa những tội lỗi, đoạn trừ những phiền não, làm cho những điều xấu không thể xâm nhập vào thân thể, đồng thời chiếc y cà sa đó cũng khiến cho nhà tu hành không bị tham sân si cám dỗ, tác động, làm nảy sinh trong lòng những điều thiện và sự từ bi. Đó cũng chính là những giá trị tinh thần tốt đẹp mà đạo Phật đang vun bồi và hướng tới.

Trong Phật giáo, chiếc y cà sa còn mang một giá trị truyền thống hết sức ý nghĩa, đó là truyền thống trao truyền y bát, tức y cà sa và bình bát đựng phẩm vật. Người được thụ nhận y bát sẽ là người kế tục sự nghiệp lãnh đạo tăng đoàn của đức Phật. Truyền thống này xuất phát và được phổ biến trong Phật giáo Thiền tông. Sách Liên đăng hội yếu[viii] có thuật lại tích này như sau: Trong một cuộc hội ở trên núi Linh Thứu[ix], Đức Thế tôn giơ cành hoa ra trước mặt đại chúng mà không nói lời nào. Mọi người đều im lặng không hiểu gì, chỉ có Ngài Ma-ha-ca-diếp[x] (MahàKac’yapa) là mỉm cười. Đức Thế tôn liền nói: “Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn[xi] nay trao lại cho Ma-ha-ca-diếp”. Sau đó Phật đã trao truyền lại y bát cho ngài Ma-ha-Ca-diếp.

Truyền thuyết này gọi là Niêm hoa vi tiếu (Cầm hoa mỉm cười), nêu lên khái niệm về sự tinh tế và cao siêu của sự giác ngộ không thể trình bày hay diễn đạt bằng lời nói được. Yên lặng tượng trưng cho sự quán nhận trực tiếp, vượt lên trên ngôn từ và sự hiểu biết quy ước của chúng ta. Đây cũng là một đặc thù của thiền tông, vì thế ngài Ma-ha-ca-diếp được xem là tổ thứ nhất của Thiền tông trên đất Ấn Độ. Ngài Ma-ha-ca-diếp sau khi nhận y bát của Đức Phật đã lãnh đạo tăng đoàn khi đức Phật nhập diệt. 

Ngài Ma-ha-Ca-diếp về sau lại trao y bát của mình cho ngài A-nan-đà. Tục lệ truyền thụ này kéo dài ở Ấn Độ cho đến tổ thứ 28 là Ngài Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma, 470 - 543), tức gần một ngàn năm sau khi Phật tịch diệt. Khi ngài Bồ-đề-đạt-ma sang truyền đạo ở Trung Quốc, ngài trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền tông trên phần đất này. Tục lệ truyền y bát tiếp tục trên đất nước Trung Hoa cho đến tổ thứ sáu là ngài Huệ Năng (638-713), tức được thêm khoảng hai trăm năm nữa. Tổ của ngài Huệ Năng là ngài Hoằng Nhẫn (601-674) trao chiếc áo cà sa tượng trưng sự lãnh đạo tông phái cho ngài Huệ Năng, vì Huệ Năng là người thấu hiểu sâu xa hơn hết về thiền học trong số các đệ tử của tông phái. Ngài Huệ Năng kính cẩn tiếp nhận chiếc áo cà sa cao quý ấy và đồng thời cũng hiểu rằng chiếc áo tượng trưng cho lãnh đạo và uy quyền này rồi sẽ gây ra sự ganh tỵ và tranh chấp trong tăng đoàn. Ngài Hoằng Nhẫn cũng ý thức được điều ấy nên khi trao chiếc áo cho ngài Huệ Năng đã khuyên Huệ Năng bỏ trốn về phương Nam và từ đó về sau không truyền thụ y bát nữa.

Truyền thuyết trên đây có thể mang nhiều yếu tố hư cấu nhưng điều đó đã chứng tỏ sự quan trọng của chiếc y cà sa trong Phật giáo. Người được thụ nhận y cà sa và bình bát tức là đã được thụ nhận, lĩnh hội tâm pháp và sự màu nhiệm của đạo pháp để kế tục sự nghiệp của tăng đoàn. Và khi đó, y bát cũng không còn chỉ là vật dụng thông thường mà đã trở thành những giá trị tinh thần tối cao và linh thiêng của Phật giáo.

Chiếc áo cà-sa qua thời gian, không gian đã có những thay đổi để phù hợp với điều kiện môi trường khí hậu, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng đất nhưng những biến đổi đó không làm mất đi những giá trị biểu trưng, những hình tượng tiêu biểu của đạo Phật. Chiếc áo cà sa vẫn luôn luôn giữ được truyền thống và phong cách hàng ngàn năm của Phật giáo, từ những tục lệ xa xưa của Phật giáo Nam tông cho đến những cải cách về hình thức của Phật giáo Bắc tông. Tất cả đều không đi ra ngoài đạo pháp và hơn thế càng làm cho hình ảnh Phật giáo trở nên thân thuộc, gần gũi, gắn bó mà vẫn trang trọng, tôn kính và thiêng liêng./.

Phúc Nguyên


[i] Nơi có thành Vương Xá là nơi Đức Phật từng thuyết pháp.

[ii] A-nan-đa là con vua Hộc Phạn, một người em họ của Phật. A-nan-đa cũng là một trong mười đại đệ tử của Phật và là người thông thái, hiểu biết số một.

[iii] Do Nguyên Chiếu, người đời Tống, Trung Quốc soạn.

[iv] Tên đầy đủ là Đại thừa bản sinh tâm địa quán kinh.

[v] Chỉ một trong ba cõi trời, nơi mọi sắc dục trần gian đều bị loại bỏ, chỉ còn sự tịch tĩnh, thanh tịnh.

[vi] Bộ kinh gồm 10 quyển do Đàm Vô Sấm người đời Lương, Trung Quốc dịch.

[vii] Chỉ ba hàng giác ngộ của đạo Phật gồm; Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát.

[viii] Do Ngộ Minh, người đời Tống, Trung Quốc soạn.

[ix] Còn gọi Linh Sơn, cách thành Vương Xá nước Ma-kiệt-đa 10 dặm về hướng Đông. Dáng núi giống hình con chim thứu (chim ó) và trên núi có rất nhiều chim thứu nên gọi là núi Linh Thứu.

[x] Còn tên gọi khác là Ca-diếp, Ca-nhiếp là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật                  

[xi] Tất cả đều chỉ những diệu lý pháp giới của đức Phật – đấng Giác Ngộ Toàn Năng mà hạng phàm phu mê vọng không có cách nào có và nhìn thấu được. Đây cũng được coi là tâm ấn của Thiền tông theo phương pháp “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” (Truyền riêng ngoài giáo điển, không dùng văn tự).

Tác giả: Phúc Nguyên

Bài Liên Quan:

  • Vân Đồn từng đầy người phương Bắc, Trần Khánh Dư dùng kế trấn áp nguy cơ phản loạn
  • Màu Sắc Ca Sa Đàn
  • Bài thơ trong Viện Dưỡng Lão (Anh-Việt)
  • Sách 'Việt Nam phong tục' của Phan Kế Bính nhiều nhận định sai lầm về Phật giáo
  • Có nên đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão (nursing home)? - kỳ 1

các bài khác

  • Nguồn gốc và các phiên bản của Chú Đại Bi 6/3/2021
  • Nhật Bản làm lễ cầu siêu, tập thiền qua mạng 6/3/2021
  • Tu pháp gì không gặp ác đời sau? 5/3/2021
  • Trang nghiêm lễ tưởng niệm lần thứ 48 Đức Đệ Nhất Tăng Thống Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết 5/3/2021
  • Không có hạnh phúc nào bằng sự bình lặng tuyệt đối của nội tâm 5/3/2021
  • Lời Phật dạy trong bốn hạng vợ có vợ như giặc 5/3/2021
  • Tâm an vạn sự an – Tâm tịnh trú xứ trang nghiêm 5/3/2021
  • Mọi thành tựu đều tỷ lệ thuận với chuyên cần 5/3/2021
  • Truyện ngắn: “Thằng ngẫn ngơ’ 5/3/2021
  • Khi 'có' đừng vội ước ao điều mới mẻ, khi 'mất đi' đừng ôm chấp niệm mãi không buông... 4/3/2021
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *
  
HỘI AN, QUẢNG NAM: THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH CHUẨN BỊ TỔ CHỨC VỀ NGUỒN, HỘI THẢO KHOA HỌC

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Viện Nghiên cứu tôn giáo phối hợp với Ban điều hành Thiền phái...

Xem chi tiết

  • Tin xem nhiều
  • Phản hồi
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch

28/9/2014
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân

31/10/2014
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?

5/9/2014
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu

6/11/2014
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)

27/8/2014
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

6/8/2014
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát

6/8/2014
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ

9/9/2014
Toàn cảnh Chùa A Di Đà
Toàn cảnh Chùa A Di Đà

9/9/2014
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập

12/12/2014
Tuệ Lan
1/2/2021
Bài viết rất đúng và chân thực, Kính mong BBT không để files đuôi pdf vì rất khó đọc trên điện thoại
Nguyên Phong
26/1/2021
TỔ CHỨC ĐẠO TÀ THANH HẢI NHƯ KIỂU HITLER. ĐÂY LÀ CÁCH CAI QUẢN VÀ GUỒNG MÁY ĐIỀU HÀNH THẬT ĐỘC ĐÁO (ĐỘC TÀI VÀ KÍN ĐÁO) trong nội bộ của " BÀ PHẬT SỐNG THANH HẢI TRONG ĐOÀN THỂ QUÁN ÂM." Chọn lại Liên Lạc Viên sau 5 năm, tất cả Liên Lạc Viên từng vùng trên thế giới sau khi được đồng tu địa phương bầu chọn xong thì phải được gửi đến trung tâm chính để BÀ PHẬT SỐNG Thanh Hải DUYỆT XÉT CHỌN LẠI, BÀ THÍCH CHỌN AI THÌ NGƯỜI ĐÓ MỚI ĐƯỢC LÀM LIÊN LẠC VIÊN CỦA VÙNG ĐÓ.( NGƯỜI LIÊN LẠC VIÊN MỚI PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN THEO LỆNH CỦA BÀ VÀ BAN LÀM VIỆC CHO BÀ...). Còn việc VU KHỐNG HOẶC ĐUỔI NHỮNG ĐỒNG TU CHÂN THẬT NÓI LỜI NGAY THẲNG thì do chính bà Phật Sống Thanh Hải ra CHỈ THỊ KHAI TRỪ nhưng để tránh tiếng bà nói là do BAN LÀM VIỆC tự làm bà không biết gì (BAN LÀM VIỆC là ban quyền hành nhất trong đoàn thể này đối với tất cả đồng tu, có khi bà Thanh Hải GIAN XẢO MƯỢN DƯỚI TÊN là BAN NGOẠI VỤ hoặc do BAN NGOẠI VỤ ở hải ngoại làm theo LỆNH của bà, kế đến những người có quyền là Sứ Giả Quán Âm, rồi đến người có quyền hành sau chót là Liên Lạc Viên địa phương, TẤT CẢ ĐỀU TRỰC THUỘC DƯỚI TAY BÀ, CÒN CHỌN LIÊN LẠC VIÊN ĐỊA PHƯƠNG PHẢI DO CHÍNH BÀ TA CHỌN LỰA MỚI ĐƯỢC, như kiểu ĐỨC QUỐC XÃ - ADOLF HITLER.) Mới đây vào tháng 11/2016 bà Thanh Hải đưa chỉ thị xuống cho tất cả Liên Lạc Viên địa phương trên toàn thế giới ra thông báo TUYỂN CHỌN CẤP TỐC MỘT ĐỘI NGŨ ĐỒNG TU TRUNG THÀNH ĐỂ LÀM VIỆC RIÊNG CÒ MỒI cho bà và sẽ được bà cấp THẺ ĐẶC BIỆT mà chỉ có Liên Lạc Viên mới biết và giao thẻ đặc biệt đó cho từng người thôi. Đội ngũ này được hình thành để trợ lực cho BAN LÀM VIỆC và có nhiệm vụ ngầm KHỐNG TRỊ, THEO DÕI, BÁO CÁO những diễn biến của tất cả đệ tử và BIỆN HỘ, TUYÊN TRUYỀN, QUẢNG CÁO CHO BÀ ĐỂ CÂU THÊM NGƯỜI BÊN NGOÀI. Đơn xin phải qua Liên Lạc Viên vùng gửi đến BÀ PHẬT SỐNG Thanh Hải chọn. TÀ ĐẠO mới hành xử theo kiểu này, thật ghê tởm thay. NAM MÔ CỨU KHỔ CỨU NẠN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. 
Lê Mai Anh
2/1/2021
Mấy bạn lên án thầy Nguyên Thành là "mượn đạo tạo đời" ghê lắm, tôi còn tưởng đâu thầy hô hào kêu gọi thu hàng trăm triệu mỗi người, ngờ đâu có trăm ngàn mỗi tháng! Cộng với những khoản liệt kê ra vẫn chưa là một góc nhỏ với việc đi cúng đền miễu hàng trăm triệu mỗi lần mà rước họa vào thân. Mà chính bạn Ngô Đức Hiếu cũng công nhận là thầy "truyền bá Phật pháp là rất tốt" mà, sao cứ so đo vài trăm ngàn nhỉ? Cúng dường mà tâm keo kiệt hối tiếc thì chẳng trách sao làm ăn lận đận, khó khăn mãi (Kinh Mahachauna đã xác quyết như vậy)!
Nguyễn Văn
2/1/2021
Gởi BBT chùa Adida, Tại sao BBT lại cho đăng những phản hồi không chứng cú bịa đặt? trong khi tôi phản hồi lời văn không nặng nề nhưng có link nói rỏ bộ mặt đê hèn của một số người lợi dụng trang web của chùa Adida để nói bậy nói nhảm? http://chanhtuduy.com/noi-voi-ke-an-chao-da-bat/ và bài http://chanhtuduy.com/cao-dieu-mat-thuy-noi-voi-truong-thanh-long-mat-na-tam-thuc-sao-rot-nhanh-qua-vay/ Nếu đã công tâm thì phải đăng 2 chiều cho mọi người cùng biết. Nếu thấy đủ rồi thì ngưng không cho phản hồi nữa vì nếu không sẽ có người lợi dụng. Trân trọng.
Lê Nhật Anh
1/1/2021
Gửi Cao Kỳ Duyên! Bạn copy lời trên zalo của một tên phản đồ.Tôi nói bạn nghe, hắn ta bị đuổi ra khỏi Viện ITA, vợ hắn bỏ hắn, con cái hỗn láo trộm cắp, hắn đã 60 mà xưng anh em ngọt sớt với một cô gái 20. Chắc u uất với cuộc đời quá nên hắn bị hoang tưởng. Nghĩ cách vu vạ để trả thù, muốn người khác cũng thê thảm như mình chăng?
Nguyen Le
1/1/2021
KHÔNG THẤY BÊN MGSN PHẢN ĐỐI VỀ ĐƯA TIN TÂY PHƯƠNG TỊNH THỔ Mấy hôm theo dõi bàn về kiện câp thì nhiều, còn bàn về mua đất xd Tây phương TT thì ít nhắc
Ngô Đức Hiếu
31/12/2020
Dựa vào các chức năng nói trên, ông Nguyễn Hữu Lợt đã khôn khéo phát lồ những tâm pháp yoga thanh trí, dựa theo các kinh điển phật giáo để đưa vào kiến thức phổ biến và giảng đạo. Xét về truyền bá phật pháp là rất tốt đó là quyền tự do tín ngưỡng của mỗi cá nhân, tuy nhiên điều tôi muốn nói rằng: Đạo sư đã dựa vào kiến thức phật học rồi phổ biến nhưng lại có mục tiêu thu nạp hội viên để thu nhiều các loại phí (chủ yếu là mong được tự nguyện cúng dường) và làm cho nhiều hội viên đang hoang tưởng mình đang gặp 1 vị đạo sư, mình đang được quy y một bậc đạo sư thầy của trời người, một bậc trí tuệ đắc đạo. Đây mới là vấn đề cần bàn và đặt ra những câu hỏi? tại sao vị đạo sư Nguyễn Hữu Lợt lại tinh vi đến vậy. MƯỢN ĐẠO TẠO ĐỜI.
Nguyễn Tất Kiên (không phải Tất Kiểm nhé)
31/12/2020
Viện ITA không hề có hoạt động tâm linh, hoạt động tôn giáo, hoạt động Phật pháp, mà chức năng vẫn chốt là Tập hợp các nhà khoa học, các chuyên gia có kinh nghiệm và cán bộ có trình độ chuyên môn trong nghiên cứu phát triển, các dịch vụ khoa học và công nghệ về lĩnh vực tâm lý và yoga để khai thác tài nguyên trí tuệ và cải thiện sức khỏe, đời sống tinh thần con người. chứ không được phép tuyển dụng, thu nạp các tín đồ vào để quy y Thầy Phật Pháp Tăng. 3.Theo điều 2 trong Quyết định thì Viện ITA đã đăng ký chứng nhận CHỨNG NHẬN HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC do BỘ KHOA HỌC cấp số A-1890 cấp lại lần 2 ngày 16/10/2020 Chức năng gồm: -Nghiên cứu khoa học về tâm lý học và yoga để khai tác tài nguyên trí tuệ con người bao gồm: những vấn đề lý luận, thực tiễn về tâm lý giáo dục, tâm lý giới tính, tâm lý xã hội, tâm lý các độ tuổi, tâm lý học về quản lý và kinh doanh - Tư vấn, phản biện khoa học, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học và đào tạo, phổ biến kiến thức trong lĩnh vực nghiên cứu nêu trên.
Cao Kỳ Duyên
31/12/2020
THẦY TÀ (TT) THINLEY NGUYÊN THÀNH LÀ AI? Chào các em, vì tên thầy tà (tt) đê tiện, xảo trá cung cấp số điện thoại của anh trong đơn ngu dốt trên trang xú uế của hắn nên nhiều người liên hệ muốn tìm hiểu nên anh tóm tắt để mọi người hiểu rõ về tên tt này. (anh tách ra làm 3 phần để post) Phần 1 Tt ăn cắp giáo pháp trong kinh điển xào nấu và cho là "phát kiến" của tt và tự nhận là tổ sư sáng lập dòng "yoga tối trí" dựa trên nền tảng giáo lý Phật đà chứ không phải hoạt động tôn giáo nhưng học trò thực hành nghị quỹ tụng niệm do tt biên soạn toàn lấy trong kinh điển. Mọi hoạt động của tt là hoạt động tôn giáo của đạo Phật và tt tận dụng kiếm tiền qua các hoạt động đó: tt làm lễ quy y để lấy tiền, có thời gian được học trò giàu có quy y cúng dường nhiều nên tt hoang tưởng nói "bây giờ những ai được tôi làm lễ quy y rất khó phải 10 triệu trở lên tôi mới làm lễ quy y"!! (theo như các em kể thì bây giờ tt phải quy y không lấy tiền để làm màu vì chỉ có những người không biết là tt mới dám để tt quy y vì tt còn chưa biết tt chết sẽ về cõi nào); tt thường tổ chức pháp sự, pháp hội giảng pháp của đạo Phật để lấy tiền cúng dường; tt gợi ý cúng dường "bậc đạo sư" để được hanh thông để lấy tiền; tt lừa đảo xây dựng Tây phương tịnh thổ (cõi cực lạc ở thế gian) để lấy tiền; tt phát lồ ra "heo đất"đại diện cho tt ₫ể hàng ngày học trò cúng dường cho heo để tích lũy công đức về Tây Phương cực lạc để lấy tiền; tt kêu nộp tiền lệ phí trang mạng và cúng dường trang mạng (pháp bảo) hàng tháng để lấy tiền; tt bán sách ế của tt biên soạn còn xót lại bị mối mọt để lấy tiền mặc dù học trò đã có rồi mà tt xảo trá gọi là thỉnh pháp bảo của tt (tt nói khi chết tt không để lại những hạt xá lợi nhưng sách tt biên soạn từ các nguồn trong kinh điển mà tt xảo trá là tác phẩm tâm linh của tt để lại là pháp bảo của tt)??!! Phần 2 Để tránh bị cho là hoạt động tôn giáo trái phép lừa đảo kiếm tiền nên tt đã nhờ học trò thân cận ở miền Bắc (tt nói học trò này mượn tt 100 triệu làm ăn không biết bao giờ mới thu hồi lại được) để chạy chọt xin thành lập viện thuộc Liên hiệp khoa học và kỹ thuật Việt Nam, hằng năm gần Tết âm lịch tt gọi điện cho học trò này đại diện tt đem bao thư đến những nơi mà nhờ cậy để biếu xén để đền ơn (tra trên google sẽ thấy: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam gồm 134 hội thành viên trong đó có 74 hội ngành toàn quốc và 60 liên hiệp hội địa phương. Ngoài ra, trong hệ thống của Liên hiệp Hội Việt Nam còn có hơn 500 đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo được thành lập theo Nghị định 81; 192 tờ báo, tạp chí, bản tin, đặc san, trang tin, báo điện tử). Qua đó thấy chức năng và hoạt động của Liên hiệp khoa học và kỹ thuật Việt Nam rất đa dạng nhưng không hề có hoạt động tôn giáo. Tt luôn tự hào nói trang xú uế của tt là đã tà xây chánh, bài trừ mê tín, luôn theo đúng quỹ đạo chánh pháp Phật đà nhưng thực tế tt luôn làm những điều ngược lại với những gì đã nói: tt ruyền bá mê tín làm cho học trò u mê mù quáng đến cuồng tín và tt phỉ báng Phật pháp. Tt truyền bá mê tín với sự trợ giúp đắc lực của các công công ăn theo (những công công này được tt cho mượn tiền hoặc được tt giúp đỡ bằng tiền nên hết lòng bênh vực tt mà những đồng tiền này từ lừa đảo và mua bán tâm linh mà có). Bằng "50 kệ tụng sùng kính đạo sư" không đúng giáo lý của Đức Phật, tt đã làm tê liệt ý thức của học trò, biến họ thành những con người mù quáng cuồng tín, rập khuôn như nhau, tôn sùng tt như 1 bậc bồ tát dù có bị chửi bới, mạt sát...
Mạnh Cường
31/12/2020
Tôi hoan hỷ khi trang mạng của Chùa Adida và trang mạng của Viện Nghiên cứu Tâm lý học và Ứng dụng Yoga Thanh Trí (phía Thầy Nguyên Thành) để bình luận công khai trong khi trang mạng của Thư viện Hoa Sen thì không! Chưa bàn đến nội dung nhưng từ động thái này của Thư viện Hoa Sen đã khiến tôi cảm thấy có gì đó mờ ám, không công khai minh bạch.

hình ảnh hình ảnh

» Xem tất cả

Lễ Huý Nhật Năm Thứ 24 Thân Phụ của HT Trụ Trì Chùa A Di Đà (11.4 Canh Tý- 03.3.2020)
Lễ Huý Nhật Năm Thứ 24 Thân Phụ của HT Trụ Trì Chùa A Di Đà (11.4 Canh Tý- 03.3.2020) (84 hình)
Chùa A Di Đà tổ chức cơm chay gây quỹ cứu trợ cháy rừng tại Úc châu (19.01.2020)
Chùa A Di Đà tổ chức cơm chay gây quỹ cứu trợ cháy rừng tại Úc châu (19.01.2020) (47 hình)
ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL. 2563 (25.8.2019)
ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL. 2563 (25.8.2019) (71 hình)
Bố Tát Định Kỳ Hàng Tháng của Tăng Đoàn Phật Giáo Sydney (15.07.Kỷ Hợi - 2019)
Bố Tát Định Kỳ Hàng Tháng của Tăng Đoàn Phật Giáo Sydney (15.07.Kỷ Hợi - 2019) (40 hình)
Lễ Vu Lan PL 2563 (2019) tại Chùa Quốc Tế, Darwin
Lễ Vu Lan PL 2563 (2019) tại Chùa Quốc Tế, Darwin (154 hình)
Lịch Sử Đức Phật Bằng Tranh Của Thái Lan Song Ngữ Việt Anh
Lịch Sử Đức Phật Bằng Tranh Của Thái Lan Song Ngữ Việt Anh (62 hình)

Chân Dung Tăng Già Chân Dung Tăng Già

  • Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
    Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
  • Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
    Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
  • Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
    Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
  • Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
    Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
  • Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
    Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
  • Thiền sư Thần y Tuệ Tĩnh
    Thiền sư Thần y Tuệ Tĩnh
  • Quốc sư Phước Huệ (1869 - 1945)
    Quốc sư Phước Huệ (1869 - 1945)
  • Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa, tấm gương sáng Như Lai
    Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa, tấm gương sáng Như Lai
  • Hòa thượng Thích Thiện Hoa Viện trưởng Viện hóa đạo GHPGVNTN cây đại thụ Đạo pháp - Dân tộc
    Hòa thượng Thích Thiện Hoa Viện trưởng Viện hóa đạo GHPGVNTN cây đại thụ Đạo pháp - Dân tộc
  • Tiểu sử Đại lão HT.Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống PGVNTN (1891-1973)
    Tiểu sử Đại lão HT.Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống PGVNTN (1891-1973)
  • Pháp Âm
  • Phim Phật Giáo
  • Âm Nhạc
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Ðại Nạn Trước Mắt, Quay Ðầu Là Bờ 13891
  • Khac Phuc Phien Nao Tap Khi 13748
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P1 9533
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P2 10163
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 1/2 9115
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 2/2 8738
  • An Lạc Từ Tâm 12340
  • Phật Học Vấn Đáp 01, Lý Bỉnh Nam 12391
  • Phật Học Vấn Đáp 02, Lý Bỉnh Nam 11830
  • Phật Học Vấn Đáp 03, Lý Bỉnh Nam 11595
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Buddha - Đức Phật - (tập 55/ 55): Kết thúc phim... 5372
  • Buddha - Đức Phật - (tập 54/ 55): Buddha nhập... 6104
  • Buddha - Đức Phật - (tập 53/ 55): Bữa ăn cuối... 8921
  • Buddha - Đức Phật - (tập 52/ 55): Mogalana và... 5737
  • Buddha - Đức Phật - (tập 51/ 55): Buddha cứu độ... 5757
  • Buddha - Đức Phật - (tập 50/ 55): Vua Ajātasattu... 792
  • Buddha - Đức Phật - (tập 49/ 55): Năm pháp phá... 6773
  • Buddha - Đức Phật - (tập 48/ 55): Tinh xá... 6723
  • Buddha - Đức Phật - (tập 47/ 55): Thiếu nữ mang... 7726
  • Buddha - Đức Phật - (tập 46/ 55): Anan gặp nạn,... 6800
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Mừng Xuân Di Lặc 11434
  • Mùa Xuân Em Đi Lễ Chùa 11373
  • Tổng hợp Nhạc ThiềnThiền - Tĩnh Tâm - An Nhiên 12452
  • Dòng Sông Tôi Gọi Tên Em 11742
  • Một Chuyến Giả Từ 11273
  • Nối Một Nhịp Cầu 12528
  • Vẫn là Em Thơ 11920
  • Chú Cuội Dỗi Hờn 4690
  • Quê Hương Nguồn Cội 11738
  • Như Giọt Sương Đêm 13360
  • [ Xem tất cả ]

Từ điển phật giáo Từ điển phật giáo

  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Thượng
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Hạ
  • Từ Điển Pháp Số Tam Tạng
  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
  • Từ Điển Thiền Tông Hán Việt

lời vàng ý ngọc

  • NHỮNG CÂU ĐÁNG SUY GẪM
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY
  • 10 điều sau là cốt lõi hạnh phúc
  • Lời hay ý đẹp
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ CUỘC SỐNG
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (9)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (8)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (7)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (6)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (5)

thư viện sách

Tư Tưởng Phật Giáo...
Mi Tiên Vấn Ðáp

lịch âm dương

Kênh truyền hình phật giáo

Nhạc Phật Giáo Truyền hình Srisambodhiuk Truyền hình Sen Việt
Truyền hình DahamgaganaTv Truyền hình Shraddha Dhamma and Meditation Internet TV
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia - Tel: (+02) 87046317
Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com
Copyright © 2014 Chùa A Di Đà. All Rights Reserved. Powered by BizMaC