• http://www.
  • http://www.
  • http://www.
chuaadida.com
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia
  • Tin Phật Giáo
    • Phật Giáo Úc - Tân Tây Lan
    • Phật Giáo Với Xã Hội
    • Tin Viên Tịch & Tưởng Niệm
  • Sinh Hoạt Chùa A Di Đà
  • Phật Pháp
    • Nghi Lễ
    • Giáo Lý
    • Bồ Đề Tâm
  • Lịch Sử Phật Giáo
    • Nghiên Cứu Phật Giáo
    • Nhân - Vật
    • Phật - Bồ Tát - Thánh Chúng
    • tư liệu phật giáo
  • Tam Tạng Kinh Điển
    • Tranh Phật Giáo
    • Sách - Truyện Tích
    • Những Lời Phật Dạy
  • Chuyên Đề
    • Xuân Cửa Thiền
    • Phật Đản - An Cư
    • Vu Lan
    • Pháp Khí
  • Văn Hóa Phật Giáo
    • Thi Ca - Châm Ngôn - Sáng Tác
    • Kiến Trúc
    • Tự Viện
  • Môn Phong Pháp Phái
    • NGỮ LỤC
    • Giai Thoại Nhà Thiên
    • Tổ Sư
Thông tin liên hệ

Tel: (+02) 87046317

Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com

chuaadida.com Kính chào chư Tôn đức, Quí nam nữ Phật tử, Quí thiện trí thức gần xa, Kính chúc Qúy vị An Lành - Phát nguyện: Nổ lực tinh tấn tu hành giải thoát thân tâm khỏi vòng sanh tử. KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC, QUÍ NAM NỮ PHẬT TỬ, QUÍ THIỆN TRÍ THỨC, QUÍ ĐỘC GIẢ GẦN XA, THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ KIẾT TƯỜNG NHƯ Ý
Tìm
  • Trang chủ
  • Chuyên Đề
  • Pháp Khí

Ý nghĩa một số pháp khí Phật giáo

Chùa A Di Đà | 25/4/2015 | 0 Bình luận

Đạo Phật có rất nhiều pháp khí như: Chuông, trống, bảng, khánh, tràng hạt, bình bát, cà sa, tích trượng v.v… mỗi thứ đều có một công dụng và ý nghĩa khác nhau.


Có thứ dùng để làm hiệu lệnh quy củ trong chùa, hoặc để dùng vào việc nghi lễ bái sám như chuông, trống, bảng, khánh…, có thứ để dùng làm phương tiện tu niệm hoặc để tiêu biểu ý nghĩa giáo pháp như tràng hạt, bình bát, cà sa, tích trượng v.v…

Tóm lại tất cả các pháp khí trong đạo Phật đều là những bài kinh vắn tắt, là những phương tiện cần thiết, biểu dương ý nghĩa cao thâm của chánh pháp, và giúp cho người tu hành thêm phần dễ dàng tiến tu trên đường giải thoát. 

Sau đây là các pháp khí trong đạo Phật.

1. Chuông:

a. Xuất xứ: Chuông không biết bắt đầu có từ bao giờ, nhưng việc dùng chuông thì trong các kinh truyện thường có nhắc đến. Kinh Tăng Nhất A Hàm có chép: "Mỗi khi tiếng chuông chùa ngân vang thì những hình phạt trong ác đạo được tạm thời dừng nghỉ, chúng sanh chịu hình phạt được tạm thời an vui” 

Truyện Cảm Thông chép: "Ngày xưa Đức Phật Câu-lưu-tôn ở tại viện Tu-đa-la xứ Càn Trúc, đã tạo một quả chuông bằng đá xanh đánh vào những lúc mặt trời mọc. Khi chuông ngân thì trong ánh sáng mặt trời có các vị hóa Phật hiện ra, diển thuyết 12 bộ kinh, làm cho người nghe chứng được chánh quả không thể kể xiết”. Bộ Kim Lăng Chí chép: "Vua Hiếu Cao Hoàng đế đời Đường, nhân vì nghe lời sàm tấu của Tống Tề Khưu giết lầm kẻ tôi trung là Hòa Châu, nên khi chết bị đọa vào địa ngục. Một hôm có người bị bạo tử (chết thình lình), hồn thần đi lạc vào địa ngục, thấy một tội nhân bị gông cùm đánh đập rất khổ sở, hỏi ra mới biết vua Hiếu Cao nhà Đường. Vua gọi người bạo tử bảo rằng: "Nhờ ngươi trở lại dương thế nói với Hậu chúa ta rằng: Hãy vì ta mà đúc chuông cúng dường và làm các việc phước thiện.” Khi tỉnh lại, người bạo tử trên liền đến bái yết Hậu chúa và chuyển lời nhắn gửi của vua Hiếu Cao. Nghe vậy, Hậu Chúa liền thân đến chùa Thanh Lương, phát nguyện đúc một quả chuông để cúng dường và cầu siêu cho Hiếu Cao Hoàng đế”. (Bách trượng Thanh Qui, quyển 87, trang 68).Và trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật cũng đã bảo ngài La Hầu La đánh chuông để giảng lý viên thường cho ngài A-nan nghe.

b. Ý nghĩa và cách sử dụng: Có 3 loại chuông thường dùng trong các tự viện là Đại hồng chung, báo chúng chung và gia trì chung 

- Đại hồng chung là loại chuông lớn. Chuông này gọi là chuông u minh, thường đánh vào lúc đầu đêm và cuối đêm. Đánh vào lúc đầu đêm có ý là nhắc nhở cơn vô thường nhanh chóng cho mọi người và đánh vào lúc cuối đêm là có ý thức tỉnh mọi người tinh tấn tu hành để chóng vượt ra ngoài vòng tối tăm đau khổ.

Đánh chuông này thường đánh 108 tiếng, tiêu biểu ý nghĩa đoạn trừ 108 phiền não căn bản (88 kiến hoặc, 10 tư hoặc, 10 triền: Vô tàm, vô quý, hôn trầm, ác tác, não, tật, trạo cử, thùy miên, phận, phú = 108 phiền não) của chúng sanh. Vì vậy, trong bài kệ chuông có câu: "Văn chung thanh phiền não khinh – dịch: nghe tiếng chuông phiền não nhẹ…” là ý nói nghe tiếng chuông thì 108 phiền não được tiêu trừ, tâm trí được nhẹ nhàng thanh thoát vậy. Bài kệ đọc trong khi nghe chuông đánh: "Văn chung thanh phiền não khinh, trí huệ trưởng bồ đề sanh, ly địa ngục xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật độ chúng sanh, án già ra đế gia toá ha”. Còn khi đánh chuông thì đọc bài kệ: "Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, thiết vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thế chúng sanh thành chánh giác”, tiếp đến niệm danh hiệu Quán-thế-âm và thong thả đánh cho đủ 108 tiếng.

 - Báo chúng chung, cũng gọi là Tăng đường chung, tức là thứ chuông dùng để báo tin trong khi nhóm họp, thọ trai và khóa tụng v.v… trong các tự viện.

- Gia trì chung, là thứ chuông dùng điều hòa và ra hiệu trong khi tụng kinh, lễ Phật cho được nhịp nhàng đều đặn.

 2. Mõ:

a. Xuất xứ: Sách Sắc tứ thanh qui pháp khí về chương Mộc ngư có chép: "Tương truyền rằng: Loài cá luôn luôn thức không bao giờ ngủ. Vì vậy chạm nó theo hình cá là có ý: tiếng mõ có thể đánh thức được hôn tình, làm cho mọi người tỉnh cơn mê muội… "Sách Chích ngôn đời Đường có chép: "Có một người bạch y hỏi một vị trưởng lão người Thiên Trúc rằng: Vì sao ở các Tăng xá đều có treo mõ? Vị trưởng lão trả lời: Vì để kỉnh tỉnh chúnh Tăng ở tại Tăng xá. Người bạch y hỏi tiếp: Nhưng tại sao lại tạc hình cá? Vị trưởng lão không trả lời được. Người bạch y liền đến hỏi ngài Ngộ Biện, ngài giải thích: "cá là một loài không bao giờ nhắm mắt, cũng vì muốn người tu hành ngày đêm quên ngủ, gắng công tu tập, mau chứng quả nên treo và đánh mõ hình cá là có ý như vậy” 

b. Ý nghĩa và cách sử dụng: Có hai loại mõ: Mõ hình bầu dục có chạm đầu cá và mõ hình điếu chạm nguyên hình con cá nằm dài. Loại mõ hình bầu dục dùng để đánh trong khi tụng niệm, còn loại hình điếu thì thường treo ở nhà trù để đánh báo tin giờ trai phạn. 

Đánh mõ có hai ý: Một là để cho khi tụng niệm được nhịp nhàng, không lộn xộn và như thế vừa giữ được vẽ trang nghiêm và nhất là làm cho người tụng niệm khỏi bị rối trí loạn tâm. Hai là để kỉnh thỉnh tâm trí người tụng niệm khỏi bị hôn trầm, và cũng chính vì ý này mà ở quai mõ, thân mõ thường chạm trố hình loài cá là một loài không bao giờ ngủ, luôn luôn tỉnh táo vậy. Đồng thời, đánh mõ cũng còn có ý nghĩa là để báo tin thì giờ ăn uống, tu tập v.v…. trong các tòng lâm, tự viện như cách dùng bảng, khánh v.v…

3 .Trống: 

a. Xuất xứ: Kinh Kim Quang Minh chép: "Một hôm ngài Tín Tướng Bồ tát nằm mộng thấy một cái trống lớn bằng vàng. Trống có hào quang sáng như mặt trời. Trong hào quang có rất nhiều các Đức Phật ngồi trên tòa sen lưu ly đặt dưới các gốc cây báu. Chung quanh các Đức Phật đều có trăm ngàn các vị đệ tử ngồi nghe pháp. Bấy giờ có một người giống như giáo sĩ Bà la môn, cầm dùi trống đánh mạnh vào chiếc trống vàng nói trên, tiếng trống vang rền nghe như lời kinh sám hối. Khi đã tỉnh mộng, ngài Tín-Tướng Bồ tát liền đem những điều mình được thấy được nghe trong giấc mộng trình lên đức Thế Tôn… "Kinh Lăng nghiêm chép: "A-nan (lời Đức Phật)! Ngươi hãy nghe tiếng trống mỗi khi dọn cơm xong, và tiếng chuông mỗi khi nhóm chúng trong tịnh xá Kỳ-Đà này. Tiếng chuông hoặc tiếng trống trước sau nối tiếp nhau. Vậy theo ý ngươi nghe được các thứ tiếng ấy là vì nó tự bay đến bên tai ngươi, hay tai của ngươi đến nơi những chỗ phát tiếng?”

b. Ý nghĩa và cách sử dụng: Trống có hai loại trống Đại và trống Tiểu, tức trống kinh. Trống đại là thứ trống lớn, đánh trong những lúc như trước khi đánh chuông u minh vào đầu đêm và cuối đêm. Đánh theo thể thức bài Tam luân cửu chuyển. Khi đánh trống đầu đêm đọc bài kệ: "Cổ thanh hướng hướng, xứ biến hà sa, thiên long bát bộ tiến kha kha, tam-luân cửu chuyển sanh tử đoạn, độ tận chúng sanh xuất ái hà”, và tiếp đọc 5 danh hiệu: Nam mô Cổ-lôi-âm Bồ-tát ma-ha-tát. Còn đánh trống vào cuối đêm thì thường đọc bài kệ: "Lôi cổ đằng xao nghiệp chướng tiêu, tam luân cửu chuyển hướng tiêu tiêu, thượng thăng thiên giới quần thiên lạc, hạ thấu u quan chúng quỷ siêu”, và tiếp đọc 3 lần danh hiệu: Nam mô Siêu lạc Độ Bồ-Tát ma-ha-tát. Hai bài kệ trên đây ngụ ý nói: Tiếng trống là tượng trưng cho chánh pháp, chúng sanh nghe trống chánh pháp thì nghiệp chướng tất tiêu trừ và sẽ được thoát ly luân hồi sanh tử.

Ngoài ra, trong những khi thuyết pháp, khi làm lễ lớn ở điện Phật, cũng đều có dùng đến thứ trống lớn này. Khi thuyết pháp thì đánh 3 hồi để triệu tập thính chúng, còn khi làm các lễ lớn như thỉnh Tam-bảo, khai kinh v.v… thì đánh theo thể thức bài Bát-nhã-hội mà thường gọi là "chuông trống bát nhã”.

Cách đánh chuông trống Bát-nhã: đánh theo từng chữ một trong bài kệ Bát-nhã-hội. Đoạn đầu của bài kệ thì nên đánh lớn tiếng và đánh chầm chậm, từ nửa bài kệ về sau thì đánh nhỏ tiếng dần, đánh thúc cho đến khi chấm dứt và đánh đủ 3 lần. 

Bài kệ đánh trống Bát-nhã: Bát-nhã-hội (đánh 3 lần), thỉnh Phật thượng đường (1 lần), Đi chúng đồng văn (1 lần), Bát-nhã-âm (1 lần), Phổ nguyện Pháp giới (1 lần), Đẳng hữu tình (1 lần), nhập Bát-nhã (1 lần), ba-la-mật môn (đánh nhiều lần và đánh nhỏ tiếng cho đến khi chấm dứt).

Đại ý bài kệ này là cung thỉnh Phật nói lý Bát-nhã và nguyện cho Đại chúng hiện tiền cùng tất cả chúng sanh đều được thâm nhập giáo lý cứu cánh ấy.Còn trống tiểu là thứ trống nhỏ dùng đánh trong những khi tụng kinh bái sám v.v… nên cũng gọi là "trống kinh” 

Cách đánh trống này rất phức tạp, không có một qui luật nhất định, đại khái là chỉ đánh theo nhịp và âm vận trầm bổng của các bài kinh tán mà thôi. Đánh trống này với mục đích là đở hơi cho người tán tụng, thứ nửa là giúp cho buổi lễ được tăng phần trang nghiêm long trọng và cũng là một món nhạc khí trong các món nhạc khí cúng dường Tam-bảo.

4. Bảng khánh: 

a. Xuất-xứ: Sách tượng khí tiêu quyển thứ 18 có chép: "Ngài Vân Chương nói: hình của bảng giống như đám mây, nên người ta cũng thường gọi tên của bảng là Vân bảng.” Ngài Tục sự lão cũng có thuật: "Vua Tống thái Tổ cho rằng, tiếng trống hay giật mình người ngủ, nên thay vì dùng trống vua Tống Thái Tổ chế dùng thiết khánh (khánh bảng thiết).” Loại khánh này cũng gọi là chinh, tức là Vân bảng vậy.

b. Cách chế tác và sử dụng: Theo ngày Vân Chương trong sách Tượng Khí Tiên nói trên, thì hình của bảng giống như đám mây, và theo ngài Tục Sự lão thuật lại thì Tống Thái Tổ chế Vân bảng bằng thiết. Nhưng nay ở các tòng lâm thì đều dùng bảng bằng gỗ và trổ theo bán hình bát giác. Bề dày của bảng khoảng chừng 4 tấc tây và bề cao khoảng hơn 2 tấc tây. Bảng cũng được thay thế cho trống và dùng trong những trường hợp như báo tin giờ thọ trai, giờ học tập, và cả những lúc nhóm họp Tăng để nghị bàn Phật sự, phân phát cúng vật, hoặc xử đoán các lỗi lầm v.v… của chúng Tăng trong Già lam. Bảng và Khánh ấy trong luật thường gọi là "Kiền chùy thành”. 

Còn khánh cũng là một pháp khí như bảng. Cách dùng cũng không khác gì nhau, chỉ có hình thức và nguyên liệu chế tác là khác nhau mà thôi. Hình của bảng là hình bát giác và làm bằng gỗ, còn hình của khánh thì làm theo hình bán nguyệt, và đúc bằng đồng, hoặc có khi làm bằng đá cẩm hạch. Ngày nay ở các tòng lâm tuy cũng có sắm khánh nhưng ít khi dùng đến, chỉ chuyên dùng bảng mà thôi.

5. Bát: 

a. Xuất-xứ: Kinh Phật bổn hạnh chép: "Ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế, có hai thương gia một người tên là Đế-ly Phú-bà và một người tên là Bạt-ly-ca đều ở tại Bắc Ấn-Độ. Một hôm, hai thương gia này phát tâm đem sửa cúng dường Phật, nhưng Đức Phật không có gì để đựng sữa. Bấy giờ có 4 vị Thiên vương đem 4 cái bát bằng vàng cúng Phật để đựng sữa, Đức Phật không nhận, bốn vị Thiên vương lại đem 4 cái bát khác đủ các loại quí giá như ngọc, ngà v.v… Đức Phật cũng không nhận, sau cùng có 4 vị Thiên vương đem cúng dường Phật 4 cái bát bằng đá, Đức Phật hoan hỷ nhận, không từ chối.

b. Ý nghĩa, cách chế tạo và sử dụng: Chữ Bát nguyên tiếng Phạn là Bát-da-la, dịch là Ứng lượng khí, nghĩa là một vật dùng đựng các thực phẩm vừa với sức ăn của một người. Bát chỉ được trổ bằng đá, nắn bằng đất sét rồi hầm chín hoặc phết bằng sành mà thôi, chứ không được làm bằng vàng, bạc, ngọc ngà, vì những thứ này là bảo vật, người xuất gia không nên dùng, nhất là không được làm bằng gỗ, vì bát gỗ là thứ bát của Bà-la-môn (một giáo phái ngoại đạo thờ Phạm thiên ở Ấn Độ) dùng 

Ngày nay ở các nước Tiểu thừa Phật giáo như Ấn-Độ, Tích Lan, Miến Điện, Xiêm La v.v… chư Tăng thường đi khất thực, nên thường dùng Bát. Riêng ở Việt-Nam thuộc về Đại thừa Phật giáo, Chư Tăng không đi khất thực nên ít khi dùng tới, chỉ có 3 tháng an cư kiết hạ hàng năm là đặc biệt dùng nhiều nhất mà thôi. Dưới đây là bài kệ đọc trong khi dùng bát: "Chấp trì ứng khí, đương nguyện chúng sanh, thành tựu pháp khí, thọ thiên nhơn cúng” và tiếp đọc câu chú "Án chỉ rị chỉ, rị phạ nhật ra hồng, phấn tra”.

6. Trích trượng:

a. Xuất-xứ: Kinh trích trượng chép: "Phật dạy: Này các Tỳ-kheo, các người nên thọ trì Tích trượng, vì Tích trượng là một pháp khí mà 3 đời Đức Phật đều có thọ trì” 

b. Ý nghĩa và cách sử dụng: Tiếng Phạn gọi là Khích-khí-la, Trung Hoa dịch là Tích trượng, tức là cái gậy của các vị Tỳ-kheo dùng trong khi đi đường, đi khất thực… Tích trượng cũng có tên là Khí trượng hay Đức trượng, nghĩa là nhờ chiếc gậy trí tuệ và phước đức này mà người xuất gia được mạnh tiến trên đường tu tập, hướng đến quả vị giải thoát giác ngộ. Trong kinh Tích trượng có chép: "ngài Ca-Diếp bạch Phật, bạch đức Thế-Tôn, thế nào gọi là Tích trượng? Phật dạy: Tích có nghĩa là khinh, nghĩa là nhờ ở chiếc gậy Đức hạnh và trí tuệ này mà phiền não được khinh bạt và ra khỏi ba cõi sanh tử. Tích cũng có nghĩa là minh, nghĩa là được trí sáng suốt vậy. Tích lại còn có nghĩa là tỉnh, nghĩa là tỉnh ngộ được rằng, ba cõi là khổ và không, và tích cũng có nghĩa là sơ, nghĩa là người cầm chiếc gậy này thì không còn say đắm ngũ dục nữa”

Bề kính của Tích trượng chỉ vừa tay cầm, bề cao không quá đầu người. Trên đầu của Tích trượng có 4 cái vòng và 12 cái khâu nhỏ bằng đồng, tượng trưng cho 4 đế và 12 nhân duyên. Kiểu tích trượng này do Đức Phật Thích Ca chế. Cũng có một thứ Tích trượng khác, trên đầu chỉ có 2 cái vòng và 6 cái khâu mà thôi. Hai cái vòng tượng trưng cho chơn, tục nhị đế và 6 cái khâu là tượng trưng cho lục độ vậy. Kiểu Tích trượng này do Đức Phật Ca Diếp chế (Bách trượng thanh quy). 

Sau đây là bài kệ đọc trong khi cầm Tích trượng: "Chấp trì tích trượng, đương nguyện chúng sanh, thiết đại thí hội, thị như thật đạo”. (dịch: khi cầm tích trượng, nên nguyện chúng sanh, tu tập hạnh bố thí, chừng đạo quả như thật), và tiếp đọc bài mật chú: "Án na lật thê, na lật thê, na lật tra, bát nể na lật đế, na dạ bát nảnh hồng phấn tra”.

7. Lự Thủy Nan: 

 a. Xuất xứ: Theo bộ Hội Chánh Ký có chép: "Nếu làm túi lọc nước thì nên may một lớp vải dày lên trên, nếu không có lụa thì dùng vải dày cũng được”. Tri môn kỉnh huấn chép: "Túi lọc nước là một dụng cụ hành từ, là một trợ duyên tế vật. Đại đạo do đó mà sanh ra, chí đạo cũng do đó mà khắc phục được”.

b. Ý nghĩa và cách chế tác, sử dụng: Lự thủy nan là cái túi lọc nước. Lọc nước để uống hoặc để dùng vào việc tắm rửa v.v… Ý nghĩa việc lọc nước này có hai đặc điểm: Một là phòng ngừa bệnh tật, giữ gìn vệ sinh. Hai là vì lòng từ bi muốn bảo vệ các sinh mạng ở trong nước như các loài thủy trùng vi tế v.v… cho nên trước khi dùng nước cần phải được lọc kỹ. Trong kinh Chánh pháp niệm cũng có chép: "Nước để cách đêm vi trùng có thể sanh ra, nếu không được lọc kỹ thì tuyệt đối không nên dùng. Giữ được điều đó tức là một phần trì giới bất sát”.

Vậy cách chế tác và sử dụng Lự Thủy Nan như thế nào? Theo bộ Bách nhất Kiết-na thì Lự Thủy nan được chế tác theo 5 cách sau đây: 

1. Phương la: Phương la tức là một khổ vải rộng chừng 2,3 tấc vuông dùng để lọc nước trước khi uống hoặc rửa ráy.

2. Pháp bình: Hay cũng gọi là âm dương bình, tức là một thứ bình lọc nước có hai ngăn. Một ngăn chứa nước chưa lọc và một ngăn để chứa nước đã được lọc do ngăn bên kia chuyền sang.

3. Quân trì bình: Tức là lấy một tấm vải bít đầu miệng một cái bình rồi thả chìm vào trong nước, khi nào nước vào đầy bình thì đem ra mà dùng. 

4 & 5. Chước thủy la và Y-giác-la: Hai thứ kiểu lọc nước này kiểu gần giống nhau. Chước thủy la thì chỉ cần một khổ vải khoảng 1 tấc đem căng trên một cái khung hình tròn bằng tre hoặc thép. Còn Y-giác-la thì cũng dùng một khổ vải nói trên, nhưng không căng trên khung mà chỉ may quanh khổ vải một đường nẹp và lồng vào trong đường nẹp ấy một sợi dây, đến khi lọc nước vào trong một cái bình hay bát, rồi thắt sợi dây lại, bây giờ hãy đổ nước vào lọc kỹ mà dùng.

Tóm lại, 5 thứ lọc nước trên đây tuy hình thức có phần sai khác nhau, nhưng công dụng vẫn một, ấy là dùng để lọc nước mà thôi. Có điều cần lưu ý là ngoài việc lọc nước để giữ gìn vệ sinh, đặc biệt hơn hết là để bảo vệ sanh mạng, tránh sự giết hại các loài vi trùng trong nước. Cho nên sau khi lọc nước xong, túi lọc phải được đem nhúng vào chỗ lấy nước, để cho các loài vi trùng bị lọc được trở lại chỗ cũ được sống yên ổn như trước. Khi dùng đến lọc nước, nên đọc lên bài kệ sau đây; "Thiện lai lự thủy nan, hộ sanh hành từ cụ, xuất nhập thường đới tụng, phương hiệp Bồ-Tát-đạo”, và tiếp đọc câu chú "Án phạ tất ha ra ma ny tóa bà ha ". 

8. Y:

a. Xuất xứ: Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế một hôm Ngài bảo ngài A-nan rằng: "Này A-nan, các hàng đệ tử của các Đức Phật ở quá khứ đã từng mặc áo Ca-sa, các hàng đệ tử của chư Phật ở vị lai cũng sẽ mặc áo Ca-sa, Ta nay dùng dao kéo cắt thành áo Ca-sa cho các hàng đệ tử Sa-môn (chúng xuất gia) mang đắp. Áo Ca-sa sẽ không bị giặc giả cướp mất. Áo Ca-sa được gọi là giải thoát phục, cũng gọi là phước điền y. Nếu có chúng sanh nào khởi ác tâm hướng đến tam thế chư Phật, Bích Chi La hán và những người mặc áo Ca-sa, chúng sanh ấy phải chịu quả báo đau khổ nhiều không kể xiết. Vì sao thế, vì áo Ca-sa hoại sắc là Tiêu thức của Thánh hiền. Trái lại, nếu có chúng sanh nào hay phát tâm kỉnh trọng thì sẽ được phước báo vô lượng. Chính ta cũng nhờ có tín tâm kỉnh tín và mang đắp ca-sa mà ngày nay được thành chánh quả” (kinh Hoa-Nghiêm). 

Với tài liệu trên cho ta thấy rằng Pháp y không phải mới được sáng chế trong thế hệ hiện tại của Đức Phật Thích Ca, mà ở đời quá khứ các Đức Phật cũng đã từng mang đắp và đã dạy các hàng đệ tử mang đắp rồi.

b. Ý nghĩa và các loại y: Y là một thứ pháp phục của những người xuất gia. Ý nghĩa của thứ Pháp phục này thì nhiều nhưng có thể tóm tắt trong hai điểm. Một là muốn cho lối ăn mặc của người xuất gia khác với lối ăn mặc thông thường của thế gian, cốt để giảng trạch giữa người Tăng, kẻ tục. Hai là để tiêu biểu cho giới đức phẩm hạnh cùng tôn chỉ ý chí siêu trần của người xuất gia theo đạo Phật. Cũng vì hai ý nghĩa trên nên về phương diện chế tác hình thức và màu sắc, pháp-phục đã được khác hẳn với thường phục, còn về ý nghĩa thì pháp phục lại được mang những danh từ khác nhau để tiêu biểu như: Nhẫn nhục khải, phước điền y hay giả thoát phục v.v...Ngoài ra cũng muốn được dễ dàng phân biệt các Phật sự của chúng Tăng, nên pháp phục được chia làm 3 loại sau đây:

 1. An đà hội: Dịch là Tác-vụ-y. Nghĩa là thứ y mặc trong khi làm việc khi ra đường. Y này có 5 điều, mỗi điều chia làm 3 khoản, 2 khoản dài một khoản ngắn.

2. Uất-đa-la Tăng: Dịch là Nhập chúng Y. Nghĩa là thứ y dùng trong những khi nhập chúng, thọ trai, nghe giảng, tụng kinh, tọa thiền, lễ Phật, Tháp và các vị cao Tăng. Y này có 7 điều, mỗi điều chia làm 3 khoản, hai khoản dài và một khoản ngắn như kiểu y trên. 

3. Tăng-già-lê: Dịch là Tạp toái Y hay Đại Y. Nghĩa là thứ Y lớn nhất trong các loại Y. Thứ Y này chia làm 3 phẩm là Hạ, Trung và Thượng, Hạ phẩm cũng chia làm 3 là Hạ hạ, Hạ trung và Hạ thượng. Y Hạ hạ có 9 điều Y Hạ trung có 11 điều và Y Hạ thượng có 13 điều. Trung phẩm cũng chia làm 3 là Trung hạ, Trung trung và Trung thượng. Y Trung hạ có 15 điều, Y Trung trung có 17 điều và Y Trung thượng có 19 điều. Thượng phẩm cũng chia làm 3 là Thượng hạ, Thượng trung và thượng thượng. Y Thượng hạ có 21 điều, Y Thượng trung có 23 điều và Y Thượng thượng có 25 điều.

Y hạ phẩm có từ 9 điều đến 13 điều, mỗi điều cũng chia làm 3 khoản: Hai khoản dài và một khoản ngắn như hai kiểu Y trên. Y trung phẩm từ 12 đến 19 điều, mội điều chia làm 4 khoản, 3 khoản dài một khoản ngắn. Y thượng phẩm từ 21 điều đến 25 điều, mỗi điều cũng chia làm 4 khoản, 3 khoản dài một khoản ngắn như Y trung phẩm.

 9. Tràng hạt:

 a. Xuất xứ: Kinh Mộc quán tử chép: "Ngày xưa có một vị Quốc Vương tên là Ba-lưu lê đến bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, nước của tôi tuy nhỏ hẹp nhưng thường không được yên ổn. Tôi phiền não lắm, tôi muốn theo lời Phật dạy để tự sửa mình và để trị an xứ sở, nhưng nghiệt vì giáo pháp của Phật rộng rãi vô biên, tôi không biết làm sao tu tập cho hết được, vậy nên tôi đến đây, cúi mong Đức Phật đem lòng từ bi chỉ giáo cho tôi một pháp yếu để tu hành. Phật dạy: Nếu nhà vua muốn diệt trừ phiền não, không gì hơn nhà vua hãy trở về lấy gỗ tiện thành 108 hạt, xâu lại thành chuổi, dùng làm vật tùy thân. Thế rồi nhà vua nên thường trí tâm niệm "Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng”, niệm mỗi câu lần một hột, niệm 108 câu nhà vua lần qua 108 hột chuỗi. Nhà vua hãy gắng niệm cho thường trong một thời gian, phiền não của nhà vua sẽ tự khắc được tiêu trừ, tai biến trong quốc độ của nhà vua cũng sẽ nhờ công tu niệm đó mà được tỉnh giảm. Vua Ba-Lưu-lê theo lời Phật dạy, trở về lấy gỗ tiện thành tràng hạt, không những tự mình tinh tấn tu niệm nhà vua còn khuyến khích dân chúng cũng gắng công tu niệm, nên chẳng bao lâu tai biến trong nước giảm bớt lần, dân chúng cũng trở nên hiền lành. Sống một đời sống thái bình an lạc.

Bắt đầu từ đó phương pháp tu niệm lần tràng hạt mà nay thường gọi là "phương pháp sổ châu” được truyền rộng khắp nơi và được lưu truyền mãi cho đến ngày nay, trong khắp các giới Phật tử không mấy ai là không dùng đến tràng hạt trong khi tu niệm. 

b. Ý nghĩa các loại tràng hạt: Tràng hạt là một pháp cụ để dùng trong việc tu tập trì niệm. Tràng hạt gồm có 3 loại: Loại thứ nhất có 108 hột, loại thứ nhì có 54 hột, và loại thứ ba có 18 hột. Loại 108 hột là tượng trưng cho 108 phiền não. Phiền não của chúng sanh thì nhiều có thể tóm tắt trong 108 phiền não căn bản này. Nếu chúng ta gắng công tu niệm đoạn trừ được – 108 phiền não căn bản ấy thì bao nhiêu phiền não chi-mạt thảy đều tiêu trừ hết.

108 phiền não được lược kể sau: 88 món kiến hoặc của tam giới (lục sắc và vô sắc giới), cộng với 10 tư hoặc ở dục giới và 10 món triền phược phiền não như: vô tàm, vô quí, tật, xan, hối, thùy miên, trạo cử, hôn trâm, sân hận, phú thành 108 phiền não (theo Luận câu xá quyển 21). 

Loại chuổi 54 hay 27 hột không tượng trưng ý nghĩa gì, chẳng qua muốn tiện việc mang dùng nên chia hai hay là chia bốn của loại chuổi 108 hột mà thôi.

Loại chuỗi 18 hột cũng gọi là chuỗi tay, tức là loại chuỗi mang ở tay vậy. Số lượng của loại chuổi này là 1/6 của loại chuổi 108. Người ta cũng thường bảo rằng chuỗi 18 hột là tượng trưng cho 18 vị La-hán (Thập bát la hán) hay 18 vị Vương tử trong kinh Pháp Hoa, hay tượng trưng cho Thập bát giới mà cần phải tiêu trừ. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết thôi chứ không thấy kinh sách nào ghi chép cả. 

10. Tháp:

a. Xuất xứ: Theo Thập tụng luật quyển thứ 56 có chép: "Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế Ngài rất được mọi người kính mến. Ông Cấp-Cô-Độc (người sáng lập tịnh xá Kỳ-Hoàn) là một trong số người ấy. Một hôm ông đến thỉnh an và xin Phật cho ông vật gì của chính ngài để ông chiêm ngưỡng trong những khi Ngài đi vắng. Đức Phật liền cắt một ít tóc và móng tay của Ngài trao tặng cho ông Cấp-Cô-Độc. Nhận được tặng vật ấy ông Cấp-Cô-Độc rất đổi vui mừng, ông liền xin phép Đức Phật được dựng hai ngôi bảo Tháp để tôn trí cúng dường hai bảo vật trên”. 

Ngày nay ở Ấn Độ có hai ngôi chùa Răng và chùa Tóc, tức là hai ngôi chùa thờ răng và tóc của Đức Phật, không biết có phải người đời sau đã gì một duyên cớ gì đó, thỉnh hai bảo vật ở hai ngôi Tháp do ông Cấp-Cô-Độc tạo lập nói trên, đưa đến thờ ở hai ngôi chùa này chăng? 

Nhân việc dựng Tháp trên đây là để cúng dường bảo vật của Phật khi Ngài còn tại thế. Theo kinh Bát-Niết-bàn quyển hạ thì: Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các hàng đệ tử Phật liền đem kim thân của Ngài làm lễ trà tỳ (lễ hoả táng). Bấy giờ có 8 vị Quốc vương ở 8 nước: Ba-ha, Giá-la, La-ma-già, Tỳ-lưu-đề, Tỳ-xá-ly, Ma-già-đà, Ca-duy-la, Câu thi đến dự lễ trà tỳ xong thì trong 8 vị Quốc vương này, vị nào cũng muốn nước mình được vinh dự thỉnh Xá-lợi về cúng dường, nhưng không ai chịu nhường cho ai. Tình trạng tranh giành Xá-lợi giữa các vị Quốc vương mỗi lúc mỗi trở nên quyết liệt. Cuối cùng một giải pháp ổn thỏa được đề ra, ấy là Xá-lợi của Đức Phật được chia làm 8 phần chia cho 8 vị Quốc vương. Khi mang Xá-lợi về nước các vị Quốc vương đều dựng Tháp cúng dường. Do đó lần đầu tiên có 8 ngôi Tháp thờ Xá-lợi sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn.

Về sau khi vua A-Dục ra đời, cách Phật nhập Niết-bàn 900 năm, vị vua này liền thỉnh Xá-lợi trong 8 ngôi tháp ở 8 nước nói trên, phân loại thành 84.000 phần rồi dựng thành 84.000 ngôi tháp khắp lảnh thổ Ấn-Độ để tôn thờ. Đến nay, vì trải qua thời gian lâu xa, lại thêm hoàn cảnh tôn giáo Ấn-Độ cũng đã lắm phen biến đổi… nên số tháp do vua A-Dục xây cất không còn nguyên vẹn nữa, chỉ còn lại một số ít thôi. 

b. Ý nghĩa và các loại Tháp: Tháp là một phần mộ cao hiển để tôn trí Xá-lợi, tiếng Phạn gọi là Túy-đổ-ba (Stupa). Theo kinh trường A hàm thì ngoài Đức Phật còn có 3 hạng người sau được dùng Tháp, ấy là các vị Duyên Giác, thanh Văn và chuyển Luân vương. Nhưng theo king Nhân Duyên thì có 8 hạng người được dùng Tháp, tuy nhiên, phải tùy theo quả vị tu chứng mà số tầng Tháp có khác nhau.

- Tháp Phật từ 8 tầng trở lên. 

- Tháp Bồ-tát 7 tầng.

- Tháp Duyên-Giác 6 tầng. 

- Tháp Thanh Văn 5 tầng.

- Tháp A-na-hàm 4 tầng. 

- Tháp Tu-đà-hàm 3 tầng.

- Tháp Tư-đà-hàm 2 tầng. 

- Tháp Chuyển Luân vương 1 tầng.

Bài Liên Quan:

  • Nguồn gốc tụng kinh và chuông mõ, nghi thức thỉnh chuông mõ khi trì tụng
  • PHÁP KHÍ VÀ PHÁP PHỤC
  • Chuông Trống Bát Nhã
  • Ý nghĩa các âm điệu pháp khí trong nghi lễ Phật giáo
  • Ý nghĩa Pháp khí và Pháp phục sử dụng trong Phật giáo
  • Tìm hiểu pháp khí chày kim cương

các bài khác

  • Ý nghĩa cây Tích trượng trong Phật giáo 18/8/2019
  • Ý nghĩa các âm điệu pháp khí trong nghi lễ Phật giáo 21/1/2019
  • Bát đại pháp khí cát tường theo quan niệm của Mật tông 21/7/2016
  • Tìm hiểu pháp khí chày kim cương 4/7/2016
  • Nguồn gốc và ý nghĩa: Chuông, Trống, Mõ, Khánh, Bản 20/5/2015
  • Pháp Khí Và Pháp Phục 23/4/2015
  • Chuông Trống Mõ Và Chuông Trống Bát Nhã 8/11/2014
  • Nguồn gốc , ý nghĩa của chuông, trống, mõ trong nhà Như Lai 26/4/2016
  • Trống Bát Nhã của Phật giáo Hàn Quốc 19/8/2015
  • Khánh (Vân Bản) của Phật giáo Hàn Quốc 18/8/2015
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *
  
Khóa An Cư Kiết Đông PL 2566 (2022) tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu

Tịnh Nghiệp Đạo Tràng Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức khóa An Cư Kiết Đông một tuần lễ từ ngày 4 đến...

Xem chi tiết

  • Tin xem nhiều
  • Phản hồi
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch

28/9/2014
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân

31/10/2014
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?

5/9/2014
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)

27/8/2014
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu

6/11/2014
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

6/8/2014
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát

6/8/2014
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ

9/9/2014
Toàn cảnh Chùa A Di Đà
Toàn cảnh Chùa A Di Đà

9/9/2014
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập

12/12/2014
Cao Thị Huyền
14/1/2023

Tác giả của bài này là một ác quỷ. Dám xuyên tạc, mỉa mai bậc Chân sư thì chỉ có thể là tay sai hoặc quyến thuộc của ma vương mà thôi. Loại này giống như Đề Bà Đạt Đa mưu hại Đức Phật nên sẽ phải chịu hàng nghìn thậm chí hàng triệu kiếp tan xương nát thịt ở dưới ngục hình tối tăm

Huỳnh Việc Trung
24/7/2022

Tấm này theo mình thì hoàn toàn không phải. Theo mình biết thì bên Thái Lan có một vị đại sư tên là Luang Phor Thuad, các bạn có thể search tên sư trên google. Khi sinh ra đã có nhiều điềm lành, sư có nhiều thần thông. Mình có xem nhiều bức ảnh của sư trên mạng, mình thấy sư rất đẹp, khuông mặt từ bi, quang minh,rực rỡ. Mình nghe đồn sư là bồ tát bất thoái chuyển, đã đạt được Pháp Thân nên thân thể sư rất đẹp. Một vị bồ tát thôi là đã đẹp đẽ như vậy, mang nét đẹp xuất thế gian, huống chí là đức Phật người đã đạt được giác ngộ rốt ráo. Đức Phật sẽ đẹp hơn vậy gấp trăm nghìn lần, nên hiển nhiên cái bức ảnh trên kia không phải ảnh Phật! Bạn nào muons tìm hiểu về sư Luang Phor Thuad thì search là "Luang Phor Thuad","Luang Phor Thuad wax","Luang Phor Thuad statue". Hình ảnh của Sư dù ở hình thức nào, tranh vẽ, tượng hay tượng sáp đều rất đẹp. Nếu ai là đệ tử chân chính của đức Phật thì nên tìm hiểu về sư, ngắm ảnh sư,thật hiếm hoi và quý giá mấy được ngắm ảnh mọt vị bồ tát đẹp đẽ như vậy.

Nguyễn Đạt Niệm
11/4/2022
PHẬT ĐẢN LÀ LỄ HỘI TÔN GIÁO TOÀN CẦU THẾ GIỚI ĐƯƠC LIÊN HIỆP QUỐC TÔN VINH .THÌ GHPG VN HIỆN TẠI PHẢI CÓ CHỈ ĐẠO THỐNG NHẤT TỪ CẤP TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP GH CŨNG NHƯ CÁC TỰ VIỆN CẢ NƯỚC PHẢI THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC TỔ CHỨC TẤT CẢ ĐỀU HƯỚNG VÊ CÚNG DƯỜNG NGÀY PHẬT ĐẢN SINH. GH KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG CHO NGÀY PHẬT ĐẢN THÌ GH VỊ CHỦ TỊCH HĐTS PHẢI CHỈ ĐẠO CHO CÁC CẤP GH BẰNG CÔNG VĂN THÔNG BẠCH CHO KỊP MỪNG PHẬT ĐẢN SẮP ĐẾN..
Cuong Nguyen Lam
11/4/2022
Cảm ơn tác giả đã nói lên đúng thực trạng của PG, thật ra hàng Phật tử rất mong mỏi được sống trong không khí Rước Phật trên phố mà giờ đây lại cắt cả lễ Đài ...Trong khi đó lễ Noel không một thông bạch nào từ Hội đồng Giám mục Việt Nam mà chỉ có vị linh mục viết thư đến Học sinh và giáo chức ..nội dung khuyên giáo dân giới thiệu Lễ Niel đến với các bạn và đồng nghiệp của mình. Còn của PG ra văn bản tổ chức lễ Phật Đản ...đôi lúc thiếu cụm từ tổ chức xe Rước Phật và kiệu Phật thì các đơn vị PG tổ chức có nơi bị chính quyền đưa ra bản thông bạch không có nói đến rồi gây khó khăn cho việc tổ chức xe Rước Phật...Chưa kể có năm ở Đăk Lăk, hay huyện Hóc Môn_ TP HCM bị cấm cả trwo cờ PG quanh các con đường quanh chùa. Trong khi đó Noel họ treo đèn, làm hang đá ra đường đầu hẻm và cờ rợp trời mà có ai cấm đâu?
Trọng Tín
11/4/2022
Nên đấu tranh cho ngày phật đản là quốc lễ ... ngày đó toàn dân bắt buộc nghe thuyết pháp...
Tran Le Duyen
24/2/2022

A Di Da Phat Kinh Thua Yeu cau Update dia chi tren mang

Phước mỹ
5/2/2022

Tôi đồng quan ý kiến của bạn, hình này cần phải kiểm chứng lại nguồn gốc, hình này không giống như lời Phật dạy trong kinh điển. Chúng ta không nên phổ biến.

Nguyễn vih
26/1/2022
Tôi cảm thấy rất biết ơn
Thích Kà Khịa
17/1/2022

Sai. Phật và Chúa luôn khuyên các môn đồ điều đúng đắn nhất. Dù bất cứ tôn giáo nào cũng dạy hay điều phải. Bài viết đang chia rẻ tôn giáo . Đáng buồn

Phan Xuyến
28/12/2021

Hoan hỷ A MI ĐÀ PHẬT nguyện sanh TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC con cung kính tán thán công đức vô lượng vô biên PS ạ

hình ảnh hình ảnh

» Xem tất cả

Mừng tuổi Thân Mẫu 91 tuổi đầu xuân Quý Mão (25.1.2023)
Mừng tuổi Thân Mẫu 91 tuổi đầu xuân Quý Mão (25.1.2023) (54 hình)
Lễ Khai Mạc & Cúng Quá Đường: Khóa An Cư Kiết Đông PL.2566 - DL. 2022 tại Tu Viện Quảng Đức
Lễ Khai Mạc & Cúng Quá Đường: Khóa An Cư Kiết Đông PL.2566 - DL. 2022 tại Tu Viện Quảng Đức (98 hình)
Bế mạc KHOÁ AN CƯ KIẾT HẠ PL. 2566 - DL 2022 CỦA TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO TIỂU BANG SYDNEY
Bế mạc KHOÁ AN CƯ KIẾT HẠ PL. 2566 - DL 2022 CỦA TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO TIỂU BANG SYDNEY (40 hình)
Lẽ Phật Đản PL.2566 nội bộ Chùa A Di Đà 14.4 Nhâm Dần - 2022
Lẽ Phật Đản PL.2566 nội bộ Chùa A Di Đà 14.4 Nhâm Dần - 2022 (37 hình)
Huý Nhật Năm Thứ 26 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Nhâm Dần (5.2022)
Huý Nhật Năm Thứ 26 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Nhâm Dần (5.2022) (166 hình)
Mừng tuổi Thân Mẫu 90 tuổi đầu xuân Nhâm Dần (4.2.2022)
Mừng tuổi Thân Mẫu 90 tuổi đầu xuân Nhâm Dần (4.2.2022) (89 hình)

Chân Dung Tăng Già Chân Dung Tăng Già

  • Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định
    Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định
  • Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ
    Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ
  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
    Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
  • Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
    Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
  • Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
    Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
  • Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
    Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
  • Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
    Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
  • HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979)
    HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979)
  • Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
    Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
  • Pháp Âm
  • Phim Phật Giáo
  • Âm Nhạc
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Ðại Nạn Trước Mắt, Quay Ðầu Là Bờ 15051
  • Khac Phuc Phien Nao Tap Khi 15285
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P1 11453
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P2 11370
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 1/2 10589
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 2/2 10269
  • An Lạc Từ Tâm 14048
  • Phật Học Vấn Đáp 01, Lý Bỉnh Nam 13818
  • Phật Học Vấn Đáp 02, Lý Bỉnh Nam 13297
  • Phật Học Vấn Đáp 03, Lý Bỉnh Nam 12461
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Buddha - Đức Phật - (tập 55/ 55): Kết thúc phim... 6628
  • Buddha - Đức Phật - (tập 54/ 55): Buddha nhập... 7380
  • Buddha - Đức Phật - (tập 53/ 55): Bữa ăn cuối... 10701
  • Buddha - Đức Phật - (tập 52/ 55): Mogalana và... 7342
  • Buddha - Đức Phật - (tập 51/ 55): Buddha cứu độ... 6924
  • Buddha - Đức Phật - (tập 50/ 55): Vua Ajātasattu... 1605
  • Buddha - Đức Phật - (tập 49/ 55): Năm pháp phá... 7924
  • Buddha - Đức Phật - (tập 48/ 55): Tinh xá... 7973
  • Buddha - Đức Phật - (tập 47/ 55): Thiếu nữ mang... 9271
  • Buddha - Đức Phật - (tập 46/ 55): Anan gặp nạn,... 8101
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Mừng Xuân Di Lặc 14236
  • Mùa Xuân Em Đi Lễ Chùa 13399
  • Tổng hợp Nhạc ThiềnThiền - Tĩnh Tâm - An Nhiên 13466
  • Dòng Sông Tôi Gọi Tên Em 13164
  • Một Chuyến Giả Từ 13021
  • Nối Một Nhịp Cầu 13856
  • Vẫn là Em Thơ 13353
  • Chú Cuội Dỗi Hờn 5821
  • Quê Hương Nguồn Cội 12974
  • Như Giọt Sương Đêm 14492
  • [ Xem tất cả ]

Từ điển phật giáo Từ điển phật giáo

  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Thượng
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Hạ
  • Từ Điển Pháp Số Tam Tạng
  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam

lời vàng ý ngọc

  • NHỮNG CÂU ĐÁNG SUY GẪM
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY
  • 10 điều sau là cốt lõi hạnh phúc
  • Lời hay ý đẹp
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ CUỘC SỐNG
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (9)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (8)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (7)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (6)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (5)

thư viện sách

Tổng Quan về Nghiệp...
Gương Thiền (Tthiền...

lịch âm dương

Kênh truyền hình phật giáo

Nhạc Phật Giáo Truyền hình Srisambodhiuk Truyền hình Sen Việt
Truyền hình DahamgaganaTv Truyền hình Shraddha Dhamma and Meditation Internet TV
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia - Tel: (+02) 87046317
Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com
Copyright © 2014 Chùa A Di Đà. All Rights Reserved. Powered by BizMaC