Chuẩn mực và những giá trị đạo đức cổ vũ tính trung thực, vạch trần tính cơ hội bằng hệ thống truyền thông đại chúng, hệ thống giáo dục và các phương tiện truyền thống, cũng như hiện đại, góp phần tích cực trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức cá nhân, hướng đến các giá trị đạo đức phổ biến mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc, khi mở rộng cơ chế thị trường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Đạo đức là vấn đề liên quan mật thiết với con người, nên được quan tâm từ rất sớm. Trong chữ Hán, từ đạo đức được chú giải “nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào trong lòng người là đức.
Trong tiếng La tinh đạo đức là moralitas, có nghĩa là thái độ, tính cách, ứng xử là sự khác biệt của ý định, quyết định, hành động giữa những cái tốt hoặc đúng và giữa cái xấu và cái sai. Trong tiếng Việt, từ đạo đức được Từ điển tiếng Việt giải thích: “Đạo đức:
1. Đạo lý và đức hạnh, quy tắc nên theo trong cuộc sống;
2. Phẩm chất tốt đẹp của con người”
Ở phương Đông, khái niệm đạo đức được quan tâm từ rất sớm. Khổng Tử (551-479 tr.CN) là người đề cập đạo đức là sống đúng với luân thường, tu dưỡng sao cho có đạo đức. Mạnh Tử (372-289 tr.CN), kế tục quan niệm về chữ nhân của Khổng Tử, cụ thể hóa bằng thuyết tâm, tính, thiện, hệ thống hóa nhân nghĩa của Khổng Tử. Kế tiếp, các học phái ở Trung Quốc đưa ra nhiều tư tưởng về đạo đức.
Ở phương Tây, khái niệm đạo đức đã được các nhà triết học cổ đại như Aristotle, Socrates và Plato đưa ra. Người ta không thể nói về giá trị mà không nhắc đến đạo đức và sự phát triển của đạo đức. Ngược lại, người ta cũng không thể nhắc đến đạo đức mà không nghĩ tới giá trị. Sự phát triển đạo đức là một quá trình, trùng với phát triển nhận thức, bởi vì đứa trẻ không thể đưa ra những đánh giá, hay lựa chọn đạo đức, nếu chúng chưa đạt đến một mức độ trưởng thành, nhất định về nhận thức và lột bỏ tư duy cho mình là trung tâm. Khái niệm đạo đức được sử dụng theo những cách khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, nhưng có thể được hiểu là nói đến những hệ giá trị tốt đẹp của con người, một xã hội đẹp. Điều tốt đẹp thường được định nghĩa là những quan điểm và hành động, hành vi, có nghĩa là hạnh phúc, hay cảm nhận về sự hài lòng. Tương tự như vậy, những quan điểm khác lại cho rằng đạo đức là sự đánh giá được coi là tốt hay xấu. Khen ngợi điều được coi là tốt và chê trách điều được coi là xấu. Thuật ngữ đạo đức được sử dụng để nói tới một bộ phận các nguyên tắc đạo đức do một xã hội hay cá nhân đưa ra để nói tới chuẩn mực đạo đức mà trong những trường hợp cụ thể, tất cả mọi người cùng chia sẻ.
Ngày nay chúng ta thấy các chuẩn mực và giá trị đạo đức, đó có nhiệm vụ cổ vũ sự lao động hết mình cho tập thể, người lao động đã không lao động hết mình, và sự phân phối đã rơi vào tình trạng bình quân chủ nghĩa. Một hiệu ứng đạo đức lệch chuẩn đã xuất hiện trên các hành vi cá nhân: Người lao động làm dối, làm ẩu và lãn công. Họ làm việc theo tiếng kẻng và theo thời gian lao động, chứ không phải vì chất lượng lao động. Do có người tích trữ, đầu cơ, có người mang bán lại với giá cả rất chênh lệch, trong khi nhiều người thiếu các mặt hàng này lại không được phân phối, và phải mua lại với giá rất đắt. Còn tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực đạo đức; ăn gian, nói dối, cửa quyền, tham nhũng. Nhiều chuẩn mực do cơ chế này tạo ra đã không phù hợp với lợi ích của đa số người lao động.
Hành động “khoán chui” được coi như là những hành vi lệch chuẩn đạo đức mà cơ chế bao cấp không chấp nhận, nhưng những hành vi này lại được một cộng đồng không nhỏ chấp nhận. Sự lệch chuẩn này đã vượt bỏ một số chuẩn mực trong cơ chế điều chỉnh hành vi đã từng làm cho các hoạt động lao động, thiếu sáng tạo và mối quan hệ giữa con người với con người không trung thực. Sự lệch chuẩn về đạo đức này, được chúng ta gọi là sự lệch chuẩn của sự trưởng thành. Nó đề xuất một cơ chế mới, và do đó tạo cơ sở cho các chuẩn mực đạo đức mới đem lại cho các hành vi đạo đức cá nhân hướng đến hoạt động đúng đắn hơn.
Cơ chế thị trường là thành quả quan trọng và tất yếu nảy sinh từ luật cung cầu của nhân loại. Nó là yếu tố cân bằng bên trong giữa sản xuất và tiêu dùng, tạo thành cơ chế điều chỉnh lợi ích của những nhóm xã hội khác nhau. Cơ chế thị trường được hình thành trong mọi nền sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu, lợi ích của xã hội hoặc của các giai cấp, biểu hiện dưới hình thức, những quy định và những sự đánh giá, đã được mọi người thừa nhận và đã thành hình một cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh bằng tấm gương của quần chúng, của thói quen, phong tục, dư luận xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức, mang hình thức bổn phận, phải làm không riêng một ai, mà như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này là có tính chất tương đối bền vững.
Cơ chế thị trường trong các xã hội truyền thống, không hoàn toàn coi lý do kinh tế là tất cả và quan trọng nhất; do đó, cơ chế đạo đức điều chỉnh các hành vi của con người, vẫn còn chú trọng đến tập quán từ thiện, uy tín cá nhân, lương tâm, danh dự trong sản xuất và trao đổi. Cơ chế thị trường còn định hướng, và xác lập các quan hệ đạo đức, mà ở đó cá nhân phải có trách nhiệm với sản phẩm của mình, ngăn chặn mọi sự làm dối, làm ẩu phương hại đến sản xuất và tiêu dùng. Như vậy, định hướng trong cơ chế thị trường của chúng ta có liên quan đến ý thức tự giác, tính năng động xã hội và trách nhiệm đạo đức không những của các hành vi cá nhân, mà còn phát triển các giá trị đạo đức tốt đẹp của xã hội.
Cơ chế thị trường định hướng chuẩn mực đạo đức, nó còn có sự phát triển các giá trị đạo đức truyền thống, tiếp thu các tinh hoa đạo đức hiện đại, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, coi sự cộng đồng các lợi ích cơ bản là điều kiện phát triển các giá trị đạo đức cá nhân. Như vậy, đạo đức điều chỉnh các hành vi cá nhân có một hệ thống chuẩn mực, con người phải lao động trung thực, có tinh thần trách nhiệm, gắn cá nhân với xã hội, coi lợi ích xã hội cũng như lợi ích cá nhân, mọi hành vi của con người thực hiện khát vọng của cá nhân và xã hội. Rõ ràng đạo đức điều chỉnh hành vi là vô cùng phức tạp, và có sự pha trộn nhiều quan hệ đạo đức. Ngoài những chuẩn mực mới tiến bộ còn tồn tại nhiều tiêu cực đạo đức. Các chuẩn mực mới chưa hình thành, thì các chuẩn mực cũ vẫn còn tồn tại, nhiều chuẩn mực đã không phản ánh đúng tình hình thực tế. Có những khoảng trống của sự vô chuẩn đã được dư luận quan tâm điều chỉnh, song các tiêu cực đạo đức không hề suy giảm, mà ngược lại, trong các lĩnh vực tình dục, bạo lực, tài chính, ngân hàng, quyền lực đều gia tăng các tương phản của đạo đức.
Đạo đức có thể là một tập hợp những chuẩn mực hay nguyên tắc xuất phát từ các quy tắc đạo đức của triết học, tôn giáo, hay văn hóa, hoặc có thể xuất phát từ một sự chuẩn mực mang tính phổ quát. Như vậy, một khái niệm chung về đạo đức được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu có chung quan điểm, như đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, chuẩn mực của con người. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một mặt phát triển tương đối độc lập, mặt khác bị chi phối bởi các quan hệ kinh tế xã hội. Do vậy, có những giá trị đạo đức được hình thành, phát triển trong lịch sử, nhưng có những giá trị đạo đức, là những nhân tố của sự phát triển toàn diện của con người hướng tới chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế, xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển, đến quan niệm, giá trị đạo đức xã hội.
Đạo đức đồng hành của với con người trong một xã hội, có những mẫu số chung chia sẻ cùng nhau, nhưng cũng có những giá trị riêng mang tính cá nhân con người, nhưng là tấm gương phản ánh xã hội. Xã hội phát triển, hưng thịnh, đạo đức được chú trọng, kỷ cương được duy trì, dẫn tới các giá trị khác của con người, đời sống tinh thần xã hội được ổn định, phồn vinh. Có thể nói, đạo đức mặc dù thuộc lĩnh vực nhân cách, tâm lý, thái độ của con người, nhưng sự biểu hiện của nó ở khắp mọi nơi, trong mọi lĩnh vực của cuộc sống văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị. Như vậy, chúng ta có thể nhận diện đạo đức như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá, và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, và quan hệ với xã hội. Trên cơ sở khái niệm đạo đức này, chúng ta có thể kể ra nhiều loại đạo đức, nhưng không giới hạn, bao gồm: nghiêm túc; từ tốn; kiên nhẫn; đại tín; hy sinh; biết ơn; lễ độ; lễ phép; tự trọng; tôn trọng; thật thà; giản dị; tiết kiệm; trung thực; tôn sư trọng đạo; tự tin; đoàn kết; dũng cảm; thật thà; khiêm tốn; khoan dung; độ lượng; cần cù; siêng năng; tương trợ; liêm khiết; tự lập; giữ chữ tín; chí công vô tư; tự chủ; lí tưởng; năng động, sáng tạo; chủ động; danh dự; hạnh phúc; lương tâm; v.v... Đạo đức là một hiện tượng xã hội, phản ánh các mối quan hệ hiện thực, bắt nguồn từ bản thân của cuộc sống con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về lối sống. Nhờ đó, con người điều chỉnh hành vi của mình, sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội.
Chuẩn mực đạo đức, là hệ thống quy tắc xác định mẫu hành vi mà con người phải tuân theo. Trước hết, là một quan niệm về chuẩn mực. Chuẩn mực đạo đức, là tiêu chuẩn chung hướng dẫn con người hoạt động để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Chuẩn mực đạo đức, là những lý tưởng, luân lý đạo đức được công nhận là đúng và được các thành viên xã hội thừa nhận. Do vậy, “chuẩn mực đạo đức là những nguyên tắc, quy tắc đạo đức được mọi người thừa nhận trở thành những mực thước, khuôn mẫu để xem xét đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội”.
Trước hết, chúng ta cần phải giáo dục, việc nhận diện các quan hệ đạo đức, đang vận động trong đời sống của xã hội ta. Việc cổ vũ các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán các quan niệm đạo đức sai lầm một cách khách quan là điều rất cần thiết để từ đó, con người có lòng tin vào những điều thiện, và phê phán điều ác một cách khoa học, củng cố ý thức tự giác. Các quan điểm tiêu dùng, thiếu trách nhiệm, ăn bám, lười biếng, lừa đảo phải được vạch trần và người tốt, việc tốt phải được cổ vũ, nêu gương. Cùng với việc nhận diện, tính tích cực và tiêu cực đạo đức một cách đúng đắn và khoa học, trong xã hội chúng ta cũng cần phải xây dựng các chuẩn mực đạo đức mới. Thực tế cho thấy, các chuẩn mực đạo đức có tính bảo thủ cao. Có chuẩn mực mà nếu chúng ta gìn giữ được, thì các quan hệ đạo đức sẽ trở nên lành mạnh. Song có rất nhiều chuẩn mực đạo đức đã lạc hậu, cần phải gỡ bỏ để cho cái mới, cái tốt, cái đẹp xâm nhập sâu vào quan hệ xã hội. Nhiều lĩnh vực mới mẻ của cuộc sống, chưa hình thành được các chuẩn mực đạo đức tích cực. Chúng ta cần phải hiểu rõ việc xây dựng môi trường đạo đức, trong lao động, trong gia đình, tập thể, làng xã, đô thị gắn với pháp luật vừa là nội dung cơ bản của nếp sống văn minh, vừa là một yêu cầu, giáo dục đạo đức quan trọng, trong điều kiện nước ta mở rộng một hành lang pháp luật sâu và một bộ luật đạo đức tiến bộ, gắn với hành lang pháp luật, có ý nghĩa trọng đại không chỉ với lao động, mà còn cải tạo lại các quan hệ đạo đức truyền thống vẫn coi lệ làng hơn phép nước, xác lập những nhân tố cơ bản của lối sống văn minh trong xã hội hiện đại.
Cuối cùng, việc tuyên truyền các chuẩn mực và những giá trị đạo đức mới một cách sâu rộng, cổ vũ tính trung thực, vạch trần tính cơ hội bằng hệ thống truyền thông đại chúng, hệ thống giáo dục và các phương tiện truyền thống cũng như hiện đại, là cái góp phần tích cực trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức cá nhân, hướng đến các giá trị đạo đức phổ biến mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Cũng giống như đạo đức, chuẩn mực đạo đức, là những lý tưởng, luân lý đạo đức được công nhận là đúng và được các thành viên xã hội thừa nhận. Do vậy, chuẩn mực đạo đức là những nguyên tắc, quy tắc đạo đức được mọi người thừa nhận trở thành những mực thước, khuôn mẫu để xem xét đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội”. Những quy chuẩn đạo đức được xã hội chấp nhận, chính là những lý tưởng, luân lý đạo đức, những nguyên tắc, quy tắc, hành vi được các thành viên trong xã hội thừa nhận, và coi đó là cơ sở để đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Nói một cách đơn giản nhất, đạo đức hay chuẩn mực đạo đức đều là tiêu chuẩn chung, hướng dẫn con người hoạt động để đáp ứng yêu cầu của xã hội, “hướng con người tới cái đúng, cái thiện, cái đẹp dựa trên cơ sở đó, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái”.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thường xuyên đặt ra những yêu cầu mới không chỉ trong kinh tế, khoa học kỹ thuật, mà còn cả trong tính cách, đạo đức. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi con người phải sáng tạo, năng động và có khả năng thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường, với sự phát triển của khoa học công nghệ, cũng như phải cạnh tranh trong môi trường kinh tế đầy biến động. Không những vậy, ý thức của con người, cũng cần phải đặt trong một bối cảnh mới năng động, và chất lượng công việc đòi hỏi, mỗi cá nhân phải nâng cao ý thức, có năng lực, trí tuệ. Bối cảnh kinh tế mới thúc đẩy con người tích cực tìm kiếm, sáng tạo, thích ứng với hoàn cảnh. Bên cạnh đó, con người cũng cần trau dồi phẩm chất đạo đức của con người văn minh, hiện đại, có phong cách sống và làm việc có kỷ luật, với ý thức tự giác, nỗ lực vươn lên.
Do vậy, một số giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam, cũng dần thay đổi để đáp ứng với yêu cầu hiện tại. Trong bối cảnh mới, con người cần phải chủ động, mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, kiên trì, học hỏi. Những phẩm chất đạo đức như tính nguyên tắc, cởi mở, có kỷ luật, có tác phong công nghiệp, tuân thủ pháp luật, biết giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và gia đình, cộng đồng, xã hội cũng cần được hình thành rõ nét hơn. Như vậy, trong sự nghiệp phát triển của đất nước hội nhập với thế giới, người Việt Nam cần phải phát triển toàn diện về trí tuệ, về năng lực, hiểu biết, kinh nghiệm, và cả về đạo đức. Những giá trị đạo đức truyền thống của con người Việt Nam, cũng như những nhân cách và đạo đức mới về kinh doanh, ứng xử, ý thức nâng cao trình độ, nghề nghiệp chuyên môn, để tồn tại và phát triển, đòi hỏi mỗi con người, phải thích ứng và thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.
Đóng một vai trò, là yếu tố cấu thành hệ thống, các giá trị tinh thần của đời sống xã hội, giá trị đạo đức được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử, nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi con người. Với tư cách là sản phẩm của tiến trình phát triển lịch sử, của sự phát triển kinh tế xã hội, và mang tính thực tiễn lịch sử cụ thể, các giá trị đạo đức được xác định là tất cả những gì đem lại sự phát triển, sự tiến bộ cho xã hội và cho bản thân con người. Bởi con người là vốn quý nhất, là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia nên mọi giá trị đạo đức vì thế, đều phải hướng tới việc phát triển con người toàn diện, thiết lập quan hệ thực sự tốt đẹp, và tiến bộ giữa con người với con người, trong sản xuất và trong đời sống.
Trong xã hội Việt Nam chịu nhiều biến động như hiện nay, chúng ta vẫn duy trì những chuẩn mực đạo đức căn bản, được cả xã hội chấp nhận. Đó là những giá trị đạo đức truyền thống đã được gìn giữ và nâng cao từ đời này qua đời khác trở thành một tình cảm sâu sắc, một lẽ sống của toàn thể nhân dân, một niềm tự hào cao quý ở mỗi người. Đây cũng là những quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử, thói quen, tập quán... đạo đức đã có từ lâu đời và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đạo đức truyền thống Việt Nam là bản sắc của dân tộc Việt Nam, là cốt lõi của đời sống văn hóa, tinh thần của chúng ta. Dân tộc Việt Nam trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, vẫn đứng vững và phát triển được như ngày hôm nay, là vì chúng ta đã luôn gìn giữ và phát huy được bản sắc dân tộc mình, đó là giá trị đạo đức truyền thống. Và những giá trị đạo đức truyền thống này cho đến hôm nay vẫn tiếp tục trở thành nền tảng của đạo đức mới trong xã hội mới.
Như vậy, có thể nói, những giá trị đạo đức của con người Việt Nam đã được hình thành từ trong quá khứ, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử dân tộc vẫn tồn tại, được người dân duy trì và tiếp tục, phát huy trong đời sống xã hội hiện nay, đó chính là thực sự những giá trị bất biến, trở thành chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Chúng ta đang xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng cơ chế đạo đức, điều chỉnh các hành vi cá nhân, gắn với tinh thần khoan dung ngàn năm của cha ông, và lý tưởng nhân đạo tiên tiến của thời đại, là vừa góp phần củng cố tính dân tộc của nền văn hoá mới, vừa thúc đẩy những nhân tố tích cực nhất, để nhân dân ta được sống trong công bằng, xã hội ta tiến đến dân chủ, văn minh, đất nước ta ngày thêm hùng mạnh.
TT. Thích Thiện Hạnh