• http://www.
  • http://www.
  • http://www.
chuaadida.com
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia
  • Tin Phật Giáo
    • Phật Giáo Úc - Tân Tây Lan
    • Phật Giáo Với Xã Hội
    • Tin Viên Tịch & Tưởng Niệm
  • Sinh Hoạt Chùa A Di Đà
  • Phật Pháp
    • Nghi Lễ
    • Giáo Lý
    • Bồ Đề Tâm
  • Lịch Sử Phật Giáo
    • Nghiên Cứu Phật Giáo
    • Nhân - Vật
    • Phật - Bồ Tát - Thánh Chúng
    • tư liệu phật giáo
  • Tam Tạng Kinh Điển
    • Tranh Phật Giáo
    • Truyện Tích
    • Những Lời Phật Dạy
  • Chuyên Đề
    • Xuân Cửa Thiền
    • Phật Đản - An Cư
    • Vu Lan
    • Pháp Khí
  • Văn Hóa Phật Giáo
    • Thi Ca - Châm Ngôn - Sáng Tác
    • Kiến Trúc
    • Tự Viện
  • Môn Phong Pháp Phái
    • NGỮ LỤC
    • Giai Thoại Nhà Thiên
    • Tổ Sư
Thông tin liên hệ

Tel: (+02) 87046317

Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com

chuaadida.com Kính chào chư Tôn đức, Quí nam nữ Phật tử, Quí thiện trí thức gần xa, Kính chúc Qúy vị An Lành - Phát nguyện: Nổ lực tinh tấn tu hành giải thoát thân tâm khỏi vòng sanh tử. KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC, QUÍ NAM NỮ PHẬT TỬ, QUÍ THIỆN TRÍ THỨC, QUÍ ĐỘC GIẢ GẦN XA, THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ KIẾT TƯỜNG NHƯ Ý
Tìm
  • Trang chủ
  • Môn Phong Pháp Phái
  • Tổ Sư

Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh

Chùa A Di Đà | 21/11/2021 | 0 Bình luận

Thiền sư là người Trung Quốc sang Việt Nam giảng hoá Phật giáo, khai sinh ra dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh, một dòng Phật giáo hiện nay còn ảnh hưởng đến nhiều nơi.

ảnh gốc

Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo (1670 – 1746) là thiền tăng tông Lâm Tế, đời thứ 34, khai dựng chùa Chúc Thánh (Hội An, Quảng Nam) khoảng đầu thế kỉ XVIII. 

Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh là Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo, thường được gọi ngắn là Minh Hải Pháp Bảo, là một trong những vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam thế kỷ 18. Sư là đệ tử đời thứ 34 của Lâm Tế tông tại Trung Quốc, có công khai sơn ra tổ đình Chúc Thánh (Hội An), được xem là vị sơ tổ khai sinh ra dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh, một dòng tu đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của Phật giáo miền Trung Việt Nam.

Theo Đại đức Thích Như Tịnh, Hòa thượng thế danh Lương Thế Ân, sinh vào giờ Tuất, ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670) nhằm vào năm Khang Hy thứ 8 triều nhà Thanh tại làng Thiệu An, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Thân phụ Ngài là cụ ông húy Lương thụy Đôn Hậu, thân mẫu tộc Trần thụy Thục Thận. Ngài là người con thứ 2 trong gia đình có 3 anh em, anh trai là Lương Thế Bảo, em trai là Lương Thế Định.

Được sinh ra trong một gia đình thuần phong Nho giáo, nên thuở thiếu thời, Ngài tỏ ra thông minh khác người. Năm Mậu Ngọ (1678), Ngài được song thân đưa đến xuất gia tại chùa Báo Tư thuộc tỉnh Phước Kiến, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 9 tuổi. Sau một thời gian dài tu học, khi tuổi vừa tròn 20 thì Ngài được đăng đàn thọ Cụ túc giới với pháp danh Minh Hải, tự Đắc Trí, hiệu là Pháp Bảo, nối pháp đời 34 tông Lâm Tế truyền theo bài kệ của tổ Vạn Phong Thời Ủy.

Tại Việt Nam, vào niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 3 đời vua Lê Huyền Tôn, Đinh Tỵ (1677) đời chúa Nguyễn Phúc Tần, Ngài Nguyên Thiều đi theo thuyền buôn sang An Nam, đến trú tại phủ Quy Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Tháp – Di Đà. Sau đó, Ngài ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung và chùa Quốc ân. Thể theo lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn Phúc Trăn (1648-1681), ngài Nguyên Thiều trở về Trung Quốc thỉnh chư tăng và các pháp khí sang An Nam lập đàn truyền giới. Mãi cho đến năm Ất Hợi (1695) thì Ngài mới thỉnh được Hòa thượng Thạch Liêm cũng như các ngài Minh Hải-Pháp Bảo, Minh Vật-Nhất Tri, Minh Hoằng-Tử Dung, Minh Lượng-Thành Đẳng v.v… trong hội đồng thập sư sang truyền giới. Phái đoàn xuống thuyền tại bến Hoàng phố và cập bến Hội An vào ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi (1695).

Sau đó đoàn ra Thuận Hóa và được chúa Nguyễn Hiển Tông đón tiếp trọng thể và thỉnh về trụ tại chùa Thiền Lâm. Ngày mồng 1 tháng 4 năm Ất Hợi (1695), giới đàn được khai mở do Ngài Thạch Liêm làm Đàn đầu Hòa thượng. Giới đàn truyền các giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ tát với tất cả 1400 giới tử trong đó có cả các vương hầu khanh tướng. Đặc biệt, Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu được truyền riêng 1 đàn giới và được Hòa thượng đàn đầu ban cho pháp danh Hưng Long, hiệu là Thiên Túng Đạo Nhơn.

Sau khi giới đàn thành tựu, ngày 28 tháng 6 năm Ất Hợi (1695), phái đoàn trở vào lại Hội An để chờ thuyền về nước. Tại Hội An, đoàn trú tại chùa Di Đà và thể theo lời thỉnh cầu của chư Tăng cũng như bổn đạo, Ngài Thạch Liêm lập đàn truyền giới cho 300 giới tử. Ngày 19, đoàn rời Hội An ra Cù Lao Chàm, lên thuyền chờ gió. Ngày 30 thuyền nhổ neo nhưng bị nghịch gió nên phải trở lại Hội An. Ngày 12 tháng 10, chúa Nguyễn mời ngài Thạch Liêm trở lại Phú Xuân lập đàn cúng Phật truyền giới một lần nữa tại chùa Linh Mụ.

Sau đó đến ngày 24 tháng 6 năm Bính Tý (1696) ngài Thạch Liêm cùng với phái đoàn trở về Quảng Đông và không qua nữa. Sau khi Ngài Thạch Liêm về nước, có một số vị trong phái đoàn ở lại An Nam, trác tích khai sơn hoằng hóa như ngài Minh Hoằng-Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tông ở Thuận Hóa, ngài Minh Lượng-Thành Đẳng khai sơn chùa Vạn Đức tại Cẩm Hà, Hội An và ngài Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm Phô-Hội An. Lúc bấy giờ Ngài độ khoảng 26 hoặc 27 tuổi.

Từ những ngày đầu tiên ở nơi mảnh đất đầy cát bụi này, Ngài chỉ lập một thảo am để tịnh tu phạm hạnh. Dần dần hương giới đức của Ngài lan tỏa khắp mọi nơi, ảnh hưởng đạo đức đến người dân phố Hội và các vùng phụ cận nên đồ chúng ngày một quy ngưỡng tham học. Thấy cơ duyên hóa độ đã đến, Ngài chính thức khai đường giảng pháp, tiếp tăng độ chúng.

Để cho sự truyền thừa có quy cũ dài lâu, Ngài biệt xuất một bài kệ truyền pháp. Bài kệ truyền pháp của Ngài như sau:

Minh Thiệt Pháp Toàn Chương

Ấn Chơn Như Thị Đồng

Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu

Kỳ Quốc Tộ Địa Trường

Đắc Chánh Luật Vi Tông

Tổ Đạo Giải Hạnh Thông

Giác Hoa Bồ Đề Thọ

Sung Mãn Nhơn Thiên Trung.

Từ đây, trong dòng lịch sử truyền thừa của Phật giáo Việt Nam có một dòng thiền mới xuất hiện mà sử sách gọi là dòng thiền Chúc Thánh, hay còn gọi thiền phái Minh Hải Pháp Bảo. Trong bài kệ này, 4 câu đầu dùng để đặt pháp danh và 4 câu sau dùng để cho pháp tự. Hiện nay, dòng thiền Chúc Thánh đã truyền xuống đến các chữ Thánh, Thọ và sự ảnh hưởng của dòng thiền này không những ở các tỉnh miền Trung, miền Nam mà còn lan tận đến các quốc gia ở các châu lục trên thế giới. Sau gần 50 năm sang An Nam trác tích hoằng hóa, đến ngày mồng 7 tháng 11 năm Bính Dần (1746), Ngài gọi đồ chúng đến dặn dò và đọc kệ phú chúc:

Nguyên phù pháp giới không

Chơn như vô tánh tướng

Nhược liễu ngộ như thử

Chúng sanh dữ Phật đồng

Tạm dịch:

Pháp giới như mây nổi

Chân như không tánh tướng

Nếu hiểu được như vậy

Chúng sanh với Phật đồng.

Về tiểu sử Thiền sư, bài viết của Tiến sĩ Lê Xuân Thông cho thêm những chi tiết khác rất thú vị, và cũng cần thêm những nghiên cứu để kiểm chứng, chúng tôi xin dẫn lại:

Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo Thiền sư (1670-1746) là thiền Tăng tông Lâm Tế, đời thứ 34, khai dựng chùa Chúc Thánh (Hội An, Quảng Nam) khoảng đầu thế kỉ XVIII. Đến giữa thế kỉ XVIII, ngài Minh Hải Pháp Bảo lại biệt xuất bài kệ truyền phái mới, hình thành nên dòng Lâm Tế Chúc Thánh từng bước không chỉ chiếm lĩnh vị trí quan trọng tại nơi phát tích, mà còn lan rộng vào khu vực Nam Trung bộ và Nam bộ. Có thể khẳng định: Hòa thượng Minh Hải Pháp Bảo là một trong những thiền Tăng có vai trò quan trọng và để lại dấu ấn mạnh mẽ nhất trong lịch sử Phật giáo xứ Quảng.

Nghiên cứu về ngài Minh Hải Pháp Bảo, chúng tôi chú ý trước hết đến một văn bia chùa Chúc Thánh hiện còn, do Thiền sư Thiện Quả tạo lập năm Ất Mão niên hiệu Duy Tân (1915). Nội dung thực ra không có gì đặc sắc bởi đây là bia công đức ghi lại việc cúng dường Tam bảo của tín hữu thập phương. Song, phần ký mở đầu có đoạn liên quan trực tiếp đến vấn đề đang bàn trước nay, được nhiều người sử dụng làm cứ liệu quan trọng. Theo tư liệu này, Thiền sư Minh Hải sinh quán tại huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến (Trung Hoa), đến Đại Việt truyền pháp vào đời Minh niên hiệu Cảnh Thái (1450-1457), là Tổ khai sơn chùa Chúc Thánh. Văn bia viết: “Chùa Chúc Thánh được chư Sơn xưng là Tổ đình ở Nam Châu. Nhớ xưa Minh Hải Hòa thượng Tổ sư người huyện Đồng An, Phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến vào năm Giáp Tý (?)  niên hiệu Cảnh Thái triều Minh chấn tích đến phương Nam, dựng nên Ngũ tôn thất phái ở bổn tự, lưu tiếng thơm ngàn năm, trải bao năm tháng tương truyền mà kế thế các đời”.

Không có gì nghi ngờ về sinh quán của Thiền sư Minh Hải bởi điều này còn được xác tín ở nhiều tư liệu khác. Nhưng với mốc niên đại Thiền sư đến Đại Việt và lập chùa Chúc Thánh rất đáng ngờ, thậm chí khó chấp nhận. Hẳn đã có sự nhầm lẫn của người phụng soạn văn bản. Quả thật, tiếp cận thêm những tư liệu khác, vấn đề sẽ được sáng tỏ.

Trước hết là văn bia mộ tháp của Thiền sư cũng tại chùa Chúc Thánh. Mộ nằm chếch về phía Tây Nam trước chánh điện. Ở đây có hai văn bia giống nhau về nội dung nhưng một mới, một cũ. Bia mới bằng cẩm thạch, gắn ở hậu đầu (bình phong hậu); bia cũ bằng sa thạch, gắn ở mặt trước thân tháp. Cả hai đều không ghi niên đại. Sở dĩ, có hiện tượng hai văn bia cùng nội dung là do – theo Thượng tọa trụ trì Thích Đồng Mẫn – khi trùng tạo lại mộ tháp năm 1991, nhân tiện khắc thêm bia mới nhưng cũng không thể bỏ đi bia cũ.

Nhưng sự quan tâm là ở văn bia cũ. Căn cứ vào hình thức trang trí (đề tài và phong cách), có thể suy đoán bia được lập khoảng từ nửa sau thế kỉ XVIII đến những năm đầu thế kỉ XIX. Nội dung văn bia được dịch nghĩa như sau: Tháp lão Hòa thượng hiệu Pháp Bảo, họ Lương, đời thứ 34 Lâm Tế chính tông, khai sơn bản tự. Sinh giờ Tuất ngày 18 tháng 6 năm Canh Tuất, thọ 77 tuổi. Viên tịch giờ Dậu ngày mồng 7 tháng 11 năm Bính Dần. Thông tin này dĩ nhiên chưa thể mang đến câu trả lời rốt ráo đối với vấn đề đặt ra nhưng là cơ sở quan trọng để từ đây, kết hợp với các mốc niên đại xuất hiện trong các văn bản Kinh sách liên quan đến Thiền sư Minh Hải, sẽ dễ dàng xác định được niên điểm của những năm Canh Tuất và Bính Dần mà văn bia mộ tháp đã nêu.

Chẳng hạn, vào tháng 11 năm Nhâm Tý niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 4 (1732), bấy giờ Minh Hải trụ trì chùa Chúc Thánh, đã cùng đồ chúng phụng khắc cuốn Sa di luật nghi yếu giải Tăng chú để phục vụ công tác giáo hóa. Vậy không khó để chỉ ra năm Canh Tuất, tức năm sinh của Thiền sư không đâu khác ngoài năm 1670, bởi không thể rơi vào các năm sau mốc 1732. Năm 1730 cũng không thể, vì đến 1732 Thiền sư chỉ mới hai tuổi; còn nếu sớm hơn một vòng hoa giáp nữa – năm 1610, thì Thiền sư đã đủ 77 tuổi mà viên tịch vào năm 1686. Như vậy, năm Bính Dần tức năm mất của Thiền sư sẽ là 1746.

Tính hợp lý của khung thời gian vừa xác định sẽ còn được kiểm chứng nếu xem xét đến hệ thống truyền thừa với sự liên tục của nó của chi phái thiền Lâm Tế Chúc Thánh, bắt đầu từ vị Sơ tổ Minh Hải Pháp Bảo mà ta đang bàn, đến những thiền Tăng kế thế sau này với sự rõ ràng về cuộc đời và hành trạng, như Thiền sư Thiện Quả, chẳng hạn. Từ vị Sơ tổ Minh Hải Pháp Bảo đến Ngài là đời thứ bảy. Chỉ bảy đời mà đã kéo dài đến hơn 450 năm (từ khoảng 1450 đến khoảng 1915) là điều gần như không thể.

Rõ ràng, mốc niên đại Minh Hải đến Hội An rồi lập chùa Chúc Thánh thể hiện trong văn bia thời Duy Tân đã bị bác bỏ. Nhưng ta cũng chưa thể đưa ra một mốc thời gian khác tại đây. Đến nay, nhiều nghiên cứu đều thừa nhận trước khi sang Đàng Trong, Hòa thượng Minh Hải đã xuất gia tu hành tại quê nhà nhưng hầu hết không rõ tại chùa nào, thọ giáo với ai.

Cũng có ý kiến cho ông xuất gia tại chùa Báo Tư, tỉnh Phúc Kiến, nơi Thiền sư Nguyên Thiều tu hành trước lúc sang Đàng Trong truyền pháp. Ngài Minh Hải thuộc truyền thừa tông Lâm Tế, đời thứ 34 là điều đã rõ. Vậy câu hỏi đặt ra là Hòa thượng thuộc dòng/chi phái nào trong tông Lâm Tế? Thực ra, từ dữ kiện về pháp danh (Minh Hải) cùng thế thứ của Hòa thượng trong tông Lâm Tế (đời thứ 34), không khó để khẳng định Ngài thuộc dòng Thiên Đồng, theo bài kệ của Thiền sư Tổ Định Tuyết Phong, đời thứ 22 (bài kệ lập phái: Tổ đạo giới định tông/ Phương quảng chứng viên thông/ Hành siêu minh thiệt tế…).

Trong bài kệ, chữ “minh” đứng ở vị trí thứ 13. Đối chiếu với thế thứ của ngài Minh Hải thì đúng với đời thứ 34. Những bài kệ còn lại của tông Lâm Tế, tính đến thời Minh Hải Pháp Bảo, dù cũng có chữ “minh”, như dòng Trí Bản Đột Không hoặc dòng Đạo Mân Mộc Trần nhưng đều không phù hợp; tức là tính theo các dòng kệ này, thế thứ của ngài Minh Hải hoặc sẽ sớm hơn hoặc sẽ rất muộn về sau.

Chính từ đây (tức pháp phái, thế thứ kế đăng) và cùng với việc Hòa thượng Minh Hải cũng sang Đàng Trong hoằng dương đạo pháp, đã nảy ra những dự đoán khác nhau về quan hệ sơn môn giữa Ngài với Thiền sư Nguyên Thiều, rằng có thể Minh Hải gọi Nguyên Thiều bằng Sư thúc hoặc Sư bá và rằng đó là quan hệ thầy trò. Ngài Nguyên Thiều, tức Nguyên Thiều Siêu Bạch Thọ Tông (1648-1728) người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), xuất gia tại chùa Báo Tư, kế đăng đời thứ 33 tông Lâm Tế.

Hòa thượng Nguyên Thiều đến Đàng Trong năm 1677, lập chùa Thập Tháp Di Đà ở phủ Quy Ninh (Bình Định); sau ra Thuận Hóa dựng chùa Vĩnh Ân (tức Quốc Ân), rồi trụ trì chùa Hà Trung. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định ngài Nguyên Thiều kế truyền phái Lâm Tế theo hai dòng kệ: (1) Dòng Thiên Đồng của Tổ Định Tuyết Phong; và (2) dòng Thiên Khai của Mộc Trần Đạo Mân. Theo dòng Thiên Đồng, Ngài có danh hiệu Siêu Bạch, tức đứng hàng chữ “siêu” – chữ thứ mười hai trong bài kệ; theo dòng Thiên Khai, Ngài có danh hiệu Nguyên Thiều, tức đứng hàng chữ “nguyên” – chữ thứ ba trong bài kệ.

Như vậy, Hòa thượng Minh Hải cùng pháp phái với Nguyên Thiều xét trong trường hợp Nguyên Thiều tính theo dòng Thiên Đồng và đứng sau Ngài một thế hệ.

Theo sử nhà Nguyễn, Nguyên Thiều có lần vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691) trở về Quảng Đông để đón mời Hòa thượng Thạch Liêm và thỉnh pháp tượng pháp khí. Ngài Thạch Liêm nhận lời cùng Hòa thượng Nguyên Thiều đến Phú Xuân và lưu lại chùa Thiên Mụ.

Từ đây, Thượng tọa Mật Thể dựa vào tương truyền cho rằng Minh Hải đã đến Đàng Trong trong phái đoàn của Thiền sư Nguyên Thiều, rồi tham gia tổ chức giới đàn Thiên Mụ với vị trí trong Hội đồng Thập sư. Sau khi giới đàn hoàn mãn, ngài Minh Hải vào Quảng Nam lập chùa Chúc Thánh tu trì. Về sau, “tương truyền” này được nhiều người sử dụng như một sự chấp nhận, như Nguyễn Lang, Nguyễn Hiền Đức… Từ quan điểm xuất phát này, ngài Mật Thể tỏ ra dứt khoát lựa chọn khả năng Hòa thượng Minh Hải thuần túy là thế hệ dưới gọi Nguyên Thiều bằng Sư thúc hay Sư bá chứ không thể là đồ đệ của Hòa thượng Nguyên Thiều.

Theo giải thích của ngài Mật Thể, trong phái đoàn có nhiều vị cũng hàng chữ “minh” là đệ tử của Nguyên Thiều rồi, nếu những người còn lại (trong đó có Minh Hải Pháp Bảo) cũng là đệ tử nữa thì chẳng phải ngài Nguyên Thiều coi thường hai chữ “danh Tăng” lắm sao? Hơn thế, không thể xứng đức xứng tầm để ngồi cùng thầy mình trong hội đồng thập sư được. Có lẽ do chưa xác định được năm sinh của Hòa thượng Minh Hải nên ngài Mật Thể mới đi đến dự đoán có tính kết luận về uy tín đạo hạnh của Thiền sư này.

Khác với ngài Mật Thể, tác giả Thích Như Tịnh từ chỗ xác định được năm sinh của ngài Minh Hải (1670) và thời điểm Tổ sư Nguyên Thiều sang Đàng Trong (1677), tác giả một mặt – cũng như Mật Thể – cho rằng ngài Minh Hải chỉ có thể là người gọi Tổ sư Nguyên Thiều bằng Sư thúc hay Sư bá trong sự truyền thừa của chùa Báo Tư, tức không phải là đệ tử xuất gia, nhưng mặt khác khẳng định ngài Minh Hải là đệ tử đắc pháp với Tổ sư Nguyên Thiều. Đó là thời điểm ngài Minh Hải đã sang Đàng Trong và thọ giáo Hòa thượng Nguyên Thiều tại chùa Quốc Ân (Huế). Cứ liệu đưa ra là bản pháp quyển truyền thừa của dòng Lâm Tế Chúc Thánh, do Hòa thượng Toàn Nhâm Vi Ý Quán Thông cấp cho đệ tử Chương An Tôn Bổn Quảng Khánh ngày 15/4 năm Đinh Mùi (1847). Cụ thể, trong đó tên của Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch được ghi gắn với chùa Quốc Ân và đứng liền trước tên của Thiền sư Minh Hải. Dòng chữ về Nguyên Thiều như sau: “Tam thập tam thế Quốc Ân đường thượng húy Siêu Bạch thượng Thọ hạ Tông lão tổ Hòa thượng”.

Chúng tôi cũng không khỏi băn khoăn với quan điểm này. Câu hỏi đặt ra trước hết là tại sao Hải ngoại kỷ sự do chính Thạch Liêm viết không hề nhắc đến những Thiền sư trên, dĩ nhiên kể cả ngài Minh Hải Pháp Bảo, trong chuyến hành trình đến Đàng Trong và tổ chức Giới đàn Thiền Lâm năm 1695. Nhưng vấn đề còn ở chỗ khác. Một mặt tác giả khẳng định ngài Minh Hải được thỉnh mời để dự giới đàn do Hòa thượng Thạch Liêm làm tôn chủ, một mặt lại cho rằng sau đó ông đến cầu pháp với Nguyên Thiều tại chùa Quốc Ân. Dường như ở đây đã có sự mâu thuẫn, rằng ngài Minh Hải lúc bấy giờ vừa là một danh tăng, đồng thời vừa là một tiểu tăng!?

Tuy vậy, cứ liệu mà Hòa thượng Thích Như Tịnh dùng để minh chứng cho quan hệ thầy trò của Tổ sư Nguyên Thiều và Hòa thượng Minh Hải là rất đáng tin cậy, bởi có một nguyên tắc ngầm định trong cách ghi thế thứ của pháp quyển là phải theo hệ thống trực truyền, tức đời sau phải là đệ tử của đời đứng liền trước. Trong bối cảnh nào, ngài Minh Hải trở thành đệ tử của Nguyên Thiều lại là một vấn đề khác, có thể đúng như lý giải của Hòa thượng Thích Như Tịnh.

Như vậy, có thể khẳng định ngài Minh Hải Pháp Bảo là đệ tử của Tổ Nguyên Thiều, theo hệ phái dòng Thiên Đồng. Còn với việc xác định niên điểm cho sự kiện ngài Minh Hải Pháp Bảo đến Đàng Trong và khai sơn chùa Chúc Thánh vẫn là một thách thức. Chỉ có thể nói, muộn nhất, khoảng những thập niên đầu thế kỉ XVIII, Ngài đã có mặt ở Quảng Nam và chùa Chúc Thánh đã được tạo dựng.

Bởi ở những năm 20 sau đó, nhiều người đã đến đây tầm sư học đạo, kế thế chánh pháp do Hòa thượng truyền giảng. Cũng xin lưu ý, khi chúng tôi hoài nghi những quan điểm của tác giả Mật Thể và Thích Như Tịnh không có nghĩa bao gồm sự bác bỏ các khung/mốc niên đại được các tác giả nêu ra, mà chỉ không đồng thuận sự lí giải của quý Ngài mà thôi. Hòa thượng Minh Hải sau khi khai dựng đạo tràng hoằng dương chánh pháp, đã nhanh chóng gây được ảnh hưởng chốn thiền môn. Minh chứng là đã có nhiều người ở nhiều địa phương tìm đến Ngài bái sư học đạo như Thiệt Diệu Chánh Hiền, Thiệt Thọ Chánh Khỏa/Hóa, Thiệt Mẫn Chánh Dung (chùa Chúc Thánh) và Thiệt Đạo Chánh Thưởng Chân Như, Thiệt Dinh Chánh Hiển Ân Triêm (chùa Phước Lâm).

Mở rộng nguồn tư liệu, giúp ta xác nhận một vị đệ tử khác của Hòa thượng Minh Hải là Thiệt Đàm Chánh Luân. Đó là kết quả khai thác từ các tư liệu chúng tôi tiếp cận được. Ngoài ra, qua nghiên cứu của ngài Thích Như Tịnh, có thể bổ sung thêm hai vị nữa, Thiệt Úy Chánh Thành Khánh Vân, hành hóa tại Quảng Ngãi và Thiệt Đăng Chánh Trí Bửu Quang, truyền pháp tại Bình Định.

Tư liệu hiện còn cho biết Minh Hải Pháp Bảo đã chủ trương hoặc trợ lực in khắc một số kinh sách. Đó là cuốn Sa di luật nghi yếu lược tăng chú mà phần trước đã một lần chúng tôi nói đến. Sách này chú thích về 24 thiên “Oai nghi” của một sa di, do luật sư Châu Hoằng (1532-1612) biên soạn và Thiền sư Hoằng Tán (1611-1685) chú giải.

Bản để thầy trò ngài Minh Hải dựa vào đó khắc in lại được in tại Trung Hoa năm Đinh Mùi niên hiệu Khang Hy (1667). Ngoài ra, ông trợ lực cho đệ tử Thiệt Đàm Chánh Luân khắc in bộ Kinh Hoa Nghiêm (đầy đủ là Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh), tháng 9 năm Nhâm Tý niên hiệu Vĩnh Khánh 4 (1732) và sư Thiệt Uyên Chí Bảo khắc in cuốn Long thơ Tịnh Độ, tháng 2 năm Bính Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 (1746). Tổ sư Minh Hải Pháp Bảo đã biệt xuất bài kệ lập phái như sau:

Minh Thiệt Pháp Toàn Chương

Ấn Chơn Như Thị Đồng

Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu

Kỳ Quốc Tộ Địa Trường

Đắc Chánh Luật Vi Tông/Tuyên

Tổ Đạo Giải Hành Thông

Giác Hoa Bồ Đề Thọ

Sung Mãn Nhân Thiên Trung.

Trong bài kệ, bốn câu đầu dùng để đặt pháp danh, bốn câu sau dùng để đặt pháp tự. Đây là điều khá đặc biệt của dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Các dòng thiền khác thường chỉ dùng kệ để đặt pháp danh, không quy định pháp tự. Nhưng cũng nhờ vậy chúng ta có thêm dấu hiệu khả tín trong việc xác định tông phái của Tăng Ni, rằng họ có thuộc chi phái Chúc Thánh hay không. Bởi trong thực tế, chuyện trùng pháp danh không phải hiếm gặp.

Là Sơ tổ lập phái, nhưng Hòa thượng Minh Hải Pháp Bảo không cho thấy sự hào hứng trong việc lập thuyết. Bài Kệ truyền thừa như đã biết, hoàn toàn vắng bóng các vấn đề bản thể luận hay nhận thức luận, thậm chí cả vấn đề thiền lý, mà căn bản là “yếu minh học thuật” tức chỉ bày cách tu hành ngộ đạo. Đó là phải nhận thức đúng, đầy đủ mọi sự vật hiện tượng trong thế giới (pháp) thì chân lý tối thượng (chân như) sẽ xuất hiện. Muốn vậy, thực thi giới luật là một yêu cầu tiên quyết (đắc chánh luật vi tông); đồng thời người Phật tử phải vừa tham cứu kinh sách phải vừa thực hành chứng ngộ trong thực tiễn (Tổ đạo giải hành thông).

Thế Sơn (th)

Bài Liên Quan:

  • Hội An, Quảng Nam: Thiền phái Chúc Thánh chuẩn bị tổ chức về nguồn, hội thảo khoa học
  • Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh
  • Tìm hiểu sự hình thành và phát triển thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam
  • Mời viết bài tham luận cho hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh"
  • DÒNG CHÚC THÁNH – QUẢNG NAM
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh

các bài khác

  • Hoà Thượng Thích Trí Thủ: Dáng từ trên đồi Trại Thủy 25/10/2016
  • Tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Độ (1894 – 1979) 8/5/2023
  • ĐỨC ĐỆ NHẤT TĂNG THỐNG GHPGVNTN 12/2/2023
  • Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định 16/8/2022
  • Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ 20/7/2022
  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh 24/1/2022
  • HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979) 5/11/2019
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh 29/11/2021
  • Đỗ Pháp Thuận - một tăng sĩ tiêu biểu thời tiền Lê 30/1/2017
  • Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021) 21/4/2021
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *
  
Khoá An Cư Kiết Hạ Chùa Thiên Ấn PL 2567 -DL 6.2023

Từ ngày 20/06/2023 đến ngày 27/06/2023 - 3.5 Quý Mão 10.5 Quý Mão.

Xem chi tiết

  • Tin xem nhiều
  • Phản hồi
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch

28/9/2014
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân

31/10/2014
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?

5/9/2014
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)

27/8/2014
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

6/8/2014
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu

6/11/2014
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát

6/8/2014
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ

9/9/2014
Toàn cảnh Chùa A Di Đà
Toàn cảnh Chùa A Di Đà

9/9/2014
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập

12/12/2014
PHÚC
9/6/2023

Bài viết rất có ý nghĩa trong thế giới ta bà. Kính chúc Ngài Samon hạnh phúc trong phật pháp.

Tran van Thịnh
8/4/2023

Danh sách thiền tự ở Úc trong bài viết về thiền sư Thích Thanh Từ cần bổ sung thêm thiền đường Võ ưu địa chỉ 6 Fraizer st Canley valve NSW

Cao Thị Huyền
14/1/2023

Tác giả của bài này là một ác quỷ. Dám xuyên tạc, mỉa mai bậc Chân sư thì chỉ có thể là tay sai hoặc quyến thuộc của ma vương mà thôi. Loại này giống như Đề Bà Đạt Đa mưu hại Đức Phật nên sẽ phải chịu hàng nghìn thậm chí hàng triệu kiếp tan xương nát thịt ở dưới ngục hình tối tăm

Huỳnh Việc Trung
24/7/2022

Tấm này theo mình thì hoàn toàn không phải. Theo mình biết thì bên Thái Lan có một vị đại sư tên là Luang Phor Thuad, các bạn có thể search tên sư trên google. Khi sinh ra đã có nhiều điềm lành, sư có nhiều thần thông. Mình có xem nhiều bức ảnh của sư trên mạng, mình thấy sư rất đẹp, khuông mặt từ bi, quang minh,rực rỡ. Mình nghe đồn sư là bồ tát bất thoái chuyển, đã đạt được Pháp Thân nên thân thể sư rất đẹp. Một vị bồ tát thôi là đã đẹp đẽ như vậy, mang nét đẹp xuất thế gian, huống chí là đức Phật người đã đạt được giác ngộ rốt ráo. Đức Phật sẽ đẹp hơn vậy gấp trăm nghìn lần, nên hiển nhiên cái bức ảnh trên kia không phải ảnh Phật! Bạn nào muons tìm hiểu về sư Luang Phor Thuad thì search là "Luang Phor Thuad","Luang Phor Thuad wax","Luang Phor Thuad statue". Hình ảnh của Sư dù ở hình thức nào, tranh vẽ, tượng hay tượng sáp đều rất đẹp. Nếu ai là đệ tử chân chính của đức Phật thì nên tìm hiểu về sư, ngắm ảnh sư,thật hiếm hoi và quý giá mấy được ngắm ảnh mọt vị bồ tát đẹp đẽ như vậy.

Nguyễn Đạt Niệm
11/4/2022
PHẬT ĐẢN LÀ LỄ HỘI TÔN GIÁO TOÀN CẦU THẾ GIỚI ĐƯƠC LIÊN HIỆP QUỐC TÔN VINH .THÌ GHPG VN HIỆN TẠI PHẢI CÓ CHỈ ĐẠO THỐNG NHẤT TỪ CẤP TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP GH CŨNG NHƯ CÁC TỰ VIỆN CẢ NƯỚC PHẢI THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC TỔ CHỨC TẤT CẢ ĐỀU HƯỚNG VÊ CÚNG DƯỜNG NGÀY PHẬT ĐẢN SINH. GH KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG CHO NGÀY PHẬT ĐẢN THÌ GH VỊ CHỦ TỊCH HĐTS PHẢI CHỈ ĐẠO CHO CÁC CẤP GH BẰNG CÔNG VĂN THÔNG BẠCH CHO KỊP MỪNG PHẬT ĐẢN SẮP ĐẾN..
Cuong Nguyen Lam
11/4/2022
Cảm ơn tác giả đã nói lên đúng thực trạng của PG, thật ra hàng Phật tử rất mong mỏi được sống trong không khí Rước Phật trên phố mà giờ đây lại cắt cả lễ Đài ...Trong khi đó lễ Noel không một thông bạch nào từ Hội đồng Giám mục Việt Nam mà chỉ có vị linh mục viết thư đến Học sinh và giáo chức ..nội dung khuyên giáo dân giới thiệu Lễ Niel đến với các bạn và đồng nghiệp của mình. Còn của PG ra văn bản tổ chức lễ Phật Đản ...đôi lúc thiếu cụm từ tổ chức xe Rước Phật và kiệu Phật thì các đơn vị PG tổ chức có nơi bị chính quyền đưa ra bản thông bạch không có nói đến rồi gây khó khăn cho việc tổ chức xe Rước Phật...Chưa kể có năm ở Đăk Lăk, hay huyện Hóc Môn_ TP HCM bị cấm cả trwo cờ PG quanh các con đường quanh chùa. Trong khi đó Noel họ treo đèn, làm hang đá ra đường đầu hẻm và cờ rợp trời mà có ai cấm đâu?
Trọng Tín
11/4/2022
Nên đấu tranh cho ngày phật đản là quốc lễ ... ngày đó toàn dân bắt buộc nghe thuyết pháp...
Tran Le Duyen
24/2/2022

A Di Da Phat Kinh Thua Yeu cau Update dia chi tren mang

Phước mỹ
5/2/2022

Tôi đồng quan ý kiến của bạn, hình này cần phải kiểm chứng lại nguồn gốc, hình này không giống như lời Phật dạy trong kinh điển. Chúng ta không nên phổ biến.

Nguyễn vih
26/1/2022
Tôi cảm thấy rất biết ơn

hình ảnh hình ảnh

» Xem tất cả

ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL.2567 (10.09.2023)
ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL.2567 (10.09.2023) (68 hình)
Lễ tự tứ Chùa Thiên Ấn ngày 27.06.2023
Lễ tự tứ Chùa Thiên Ấn ngày 27.06.2023 (35 hình)
Đại lễ tưởng niệm 60 năm Bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân & Hiệp kỵ
Đại lễ tưởng niệm 60 năm Bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân & Hiệp kỵ (40 hình)
Khai hạ Kiết giới An cư Chùa Thiên Ấn ngày 20.6.2023
Khai hạ Kiết giới An cư Chùa Thiên Ấn ngày 20.6.2023 (39 hình)
Huý Nhật Năm Thứ 27 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Quý Mão (5.2023)
Huý Nhật Năm Thứ 27 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Quý Mão (5.2023) (136 hình)
Mừng tuổi Thân Mẫu 91 tuổi đầu xuân Quý Mão (25.1.2023)
Mừng tuổi Thân Mẫu 91 tuổi đầu xuân Quý Mão (25.1.2023) (54 hình)

Chân Dung Tăng Già Chân Dung Tăng Già

  • Tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Độ (1894 – 1979)
    Tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Độ (1894 – 1979)
  • ĐỨC ĐỆ NHẤT TĂNG THỐNG GHPGVNTN
    ĐỨC ĐỆ NHẤT TĂNG THỐNG GHPGVNTN
  • Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định
    Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định
  • Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ
    Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ
  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
    Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
  • Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
    Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
  • Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
    Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
  • Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
    Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
  • Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
    Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
  • Pháp Âm
  • Phim Phật Giáo
  • Âm Nhạc
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Tiểu Tạng Thanh Văn - Kinh Tạp A Hàm 29
  • Ðại Nạn Trước Mắt, Quay Ðầu Là Bờ 15434
  • Khac Phuc Phien Nao Tap Khi 15823
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P1 12002
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P2 11778
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 1/2 10902
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 2/2 10611
  • An Lạc Từ Tâm 14351
  • Phật Học Vấn Đáp 01, Lý Bỉnh Nam 14118
  • Phật Học Vấn Đáp 02, Lý Bỉnh Nam 13620
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Buddha - Đức Phật - (tập 55/ 55): Kết thúc phim... 6946
  • Buddha - Đức Phật - (tập 54/ 55): Buddha nhập... 7666
  • Buddha - Đức Phật - (tập 53/ 55): Bữa ăn cuối... 11181
  • Buddha - Đức Phật - (tập 52/ 55): Mogalana và... 7728
  • Buddha - Đức Phật - (tập 51/ 55): Buddha cứu độ... 7155
  • Buddha - Đức Phật - (tập 50/ 55): Vua Ajātasattu... 2055
  • Buddha - Đức Phật - (tập 49/ 55): Năm pháp phá... 8528
  • Buddha - Đức Phật - (tập 48/ 55): Tinh xá... 8358
  • Buddha - Đức Phật - (tập 47/ 55): Thiếu nữ mang... 9602
  • Buddha - Đức Phật - (tập 46/ 55): Anan gặp nạn,... 8487
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Mừng Xuân Di Lặc 14740
  • Mùa Xuân Em Đi Lễ Chùa 13838
  • Tổng hợp Nhạc ThiềnThiền - Tĩnh Tâm - An Nhiên 13735
  • Dòng Sông Tôi Gọi Tên Em 13522
  • Một Chuyến Giả Từ 13418
  • Nối Một Nhịp Cầu 14318
  • Vẫn là Em Thơ 13896
  • Chú Cuội Dỗi Hờn 6238
  • Quê Hương Nguồn Cội 13446
  • Như Giọt Sương Đêm 14822
  • [ Xem tất cả ]

Từ điển phật giáo Từ điển phật giáo

  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Thượng
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Hạ
  • Từ Điển Pháp Số Tam Tạng
  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam

lời vàng ý ngọc

  • NHỮNG CÂU ĐÁNG SUY GẪM
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY
  • 10 điều sau là cốt lõi hạnh phúc
  • Lời hay ý đẹp
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ CUỘC SỐNG
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (9)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (8)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (7)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (6)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (5)

thư viện sách

'Đại Tạng Kinh...
Thanh Văn Tạng Của...

lịch âm dương

Kênh truyền hình phật giáo

Nhạc Phật Giáo Truyền hình Srisambodhiuk Truyền hình Sen Việt
Truyền hình DahamgaganaTv Truyền hình Shraddha Dhamma and Meditation Internet TV
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia - Tel: (+02) 87046317
Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com
Copyright © 2014 Chùa A Di Đà. All Rights Reserved. Powered by BizMaC