• http://www.
  • http://www.
  • http://www.
  • http://www.
  • http://www.
  • http://www.
chuaadida.com
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia
  • Tin Phật Giáo
    • Phật Giáo Úc - Tân Tây Lan
    • Phật Giáo Với Xã Hội
    • Tin Viên Tịch & Tưởng Niệm
  • Sinh Hoạt Chùa A Di Đà
  • Phật Pháp
    • Nghi Lễ
    • Giáo Lý
    • Bồ Đề Tâm
  • Lịch Sử Phật Giáo
    • Nghiên Cứu Phật Giáo
    • Nhân - Vật
    • Phật - Bồ Tát - Thánh Chúng
    • tư liệu phật giáo
  • Tam Tạng Kinh Điển
    • Tranh Phật Giáo
    • Truyện Tích
    • Những Lời Phật Dạy
  • Chuyên Đề
    • Xuân Cửa Thiền
    • Phật Đản - An Cư
    • Vu Lan
    • Pháp Khí
  • Văn Hóa Phật Giáo
    • Thi Ca - Châm Ngôn - Sáng Tác
    • Kiến Trúc
    • Tự Viện
  • Môn Phong Pháp Phái
    • NGỮ LỤC
    • Giai Thoại Nhà Thiên
    • Tổ Sư
Thông tin liên hệ

Tel: (+02) 87046317

Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com

chuaadida.com Kính chào chư Tôn đức, Quí nam nữ Phật tử, Quí thiện trí thức gần xa, Kính chúc Qúy vị An Lành - Phát nguyện: Nổ lực tinh tấn tu hành giải thoát thân tâm khỏi vòng sanh tử. KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC, QUÍ NAM NỮ PHẬT TỬ, QUÍ THIỆN TRÍ THỨC, QUÍ ĐỘC GIẢ GẦN XA, THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ KIẾT TƯỜNG NHƯ Ý
Tìm
  • Trang chủ
  • Môn Phong Pháp Phái
  • Tổ Sư

Đỗ Pháp Thuận - một tăng sĩ tiêu biểu thời tiền Lê

Chùa A Di Đà | 30/1/2017 | 0 Bình luận

Đỗ Pháp Thuận (915- 990) là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thời Đinh - Tiền Lê và cũng là trường hợp độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam. Tên tuổi, hành trạng của ngài không những được các bộ lịch sử Phật giáo Việt Nam nhắc đến mà còn có vị trí quan trọng trong các bộ hợp tuyển Lịch sử văn học ở nước ta.


1. Hành trạng Thiền sư Đỗ Pháp Thuận 

Về hành trạng Thiền sư Đỗ Pháp Thuận, sách Thiền uyển tập anh (禅苑集英) chép như sau:

Phiên âm:

Ải quận, Thứ hương, Cổ Sơn tự, Pháp Thuận thiền sư bất tri hà hứa nhân, tính Đỗ thị, bác học công thi, phụ vương tá chi tài minh, đương

thế chi vụ.Thiếu xuất gia, sư Long thụ phù trì thiền sư, ký đắc pháp, xuất ngữ tất hợp phù sấm. Đương Lê triều sáng nghiệp chi thủy, vận

trù định sách, dự hữu công yên. Cập thiên hạ thái bình, bất thụ phong thưởng. Lê Đại Hành hoàng đế dụ trọng chi, thường bất danh hồ, vi

Đỗ Pháp sư, ký dĩ văn hàn chi nhậm. Thiên Phúc thất niên, Tống nhân Nguyễn Giác lai sính. Đế mệnh hướng biến phục vi tân lại, chiêm Giác cử động. Hội hữu lưỡng nga phù ư thủy trung, Giác hý ngâm vân:

Nga nga, lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên gia.

Sư bả trạo ư túc chi vân:

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.

Giác ư thị thán phục. Đế thường vấn sư dĩ quốc tộ đoản trường. Sư vân:

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.

Hưng Thống nhị niên, cáo chung, thọ thất thập lục. Thường tác Bồ đề hiệu sám hối văn nhất quyển hành tại thế.

GS Lê Mạnh Thát dịch: “Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Không biết người đâu. Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.

Đang vào lúc nhà Lê mới dựng nghiệp, trù kế hoạch, định sách lược, sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho sư.

Năm Thiên Phúc thứ 7 (987), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:

“Song song ngỗng một đôi

Ngửa mặt ngó ven trời”.

Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:

“Lông trắng phô dòng biếc

Sóng xanh chân hồng bơi”.

Giác do đó thán phục.

Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi sư. Sư đáp:

“Vận nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên địa các

Xứ xứ hết đao binh”.

Năm Hưng Thống thứ 2 (990), sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển, lưu hành ở đời.

(Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về “Thiền uyển tập anh”, NXB Tp.Hồ Chí Minh, 1999, tr. 261- 262).

Bản dịch của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga trong Thiền uyển tập anh (NXB Văn học, H. 1990, tr.180 - 181), về cơ bản không khác với bản của Lê Mạnh Thát, chỉ có một số điểm khác, như: hương Thư, quận Ái; Lý Giác,... Đối chiếu với nguyên tác, chúng tôi thấy phiên là hương Thừ và quận Ải thì chính xác hơn. Còn nguyên tác viết là Nguyễn Giác chứ không phải Lý Giác. Một chi tiết tuy nhỏ nhưng ý nghĩa lại không nhỏ, đó là chi tiết “Tống nhân Nguyễn Giác lai sính” (宋人阮觉來聘). Cả hai bản dịch đều bỏ qua chữ “sính”(聘). Chữ “sính” ở đây có thể hiểu là thăm hỏi, thông hiếu, một nghi lễ ngoại giao giữa hai nước có mối quan hệ hữu nghị gần gũi, chứ không phải là việc đi sứ thông thường.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư, tập I (NXB Khoa học xã hội, H.1972, tr.171) không ghi quê quán, năm sinh của Pháp Thuận. Sách Thiền uyển tập anh (bản dịch của nhóm Ngô Đức Thọ, NXB Văn học, H.1990, tr.181), chép: “Sư qua đời năm Hưng Thống thứ 2 (990), thọ 76 tuổi...”. Theo cách tính tuổi ngày xưa (tính theo tuổi mụ) thì Đỗ Pháp Thuận sinh năm 915.

Về quê quán, các sách trên và sách Thơ văn Lý Trần, Tập I (NXB Khoa học xã hội, H.1977) đều không cho chúng ta biết quê quán của Đỗ Pháp Thuận. Sách Nghiên cứu về “Thiền uyển tập anh” của Lê Mạnh Thát (NXB Tp.Hồ Chí Minh, 1999), căn cứ vào chi tiết ở ngay câu đầu “Chùa Cổ sơn, làng Thừ, quận Ải” và dựa vào sách Đại Nam nhất thống chí (mục tỉnh Sơn Tây) và Hồng Đức bản đồ (trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư) đã chú thích như sau:

 

“Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Sơn xuyên có ghi một ngọn núi tên Cổ Sơn, và nói “nó nằm tại phía đông huyện Tam Dương, cách huyện lỵ 6 dặm”. Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn khác tên Lộng Sơn và chua “tục gọi là núi Trống”. Núi này cũng “ở phía đông của huyện tại xã Tam Lộng, trên có miếu Long Sơn thần”. Cổ Sơn với Lộng Sơn như vậy là một. Thế thì, phải chăng chùa Cổ Sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Đó là một có thể.

“Nhưng Hồng Đức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ gọi là chợ Ải, rồi chua thêm “có núi Tượng bốn

bên như rồng bao bọc không hở”. Khảo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh Hóa, mục Phố thị, không thấy nói chợ nào tên là Ải cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16, tờ 40a rằng “núi Tượng nằm ở xã Bất Quần, phía tây huyện Quảng Xương, giữa đồng ruộng bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như voi phục. Trạng nguyên Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi đó”. Cổ Sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi tượng này? Và Ải quận phải chăng là chợ Ải đây?” (sđd, tr.512- 513 ).

Ở đây, học giả Lê Mạnh Thát đưa ra hai phỏng đoán là quê quán Đỗ Pháp Thuận có thể ở Sơn Tây, có thể ở Thanh Hóa. Chúng tôi cũng chưa có tư liệu nói về quê quán vị thiền sư này. Nhưng căn cứ vào điều kiện giao thông, phương tiện đi lại thời đó (thế kỷ X), chúng tôi cho rằng có thể quê quán Đỗ Pháp Thuận ở xã Bất Quần huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa.

Về tình hình tu tập, các nguồn thư tịch cổ cũng không ghi chép rõ. Sách Thiền uyển tập anh chỉ cho chúng ta biết Đỗ Pháp Thuận thuộc thế hệ thứ 10 dòng Tỳ ni đa lưu chi.

2. Sự tin tưởng và trọng dụng của Hoàng đế Lê Đại Hành đối với Thiền sư Đỗ Pháp Thuận

Cũng như các vị Thiền sư Lã Định Không, La Quí An, Vạn Hạnh,...Đỗ Pháp Thuận sống và hành đạo trong xã hội có nhiều biến động dữ dội.

Năm 930, quân Nam Hán do Lương Khắc Trinh cầm đầu đem quân xâm lược nước ta, Khúc Thừa Mỹ (con trai Khúc Hạo, cháu Khúc Thừa Dụ) đem quân chống cự nhưng thất bại. Nước ta bị người phương Bắc cai trị. Tháng 2 năm 931, Dương Đình Nghệ - một vị Hào trưởng ở đất Thanh Hóa đánh chiếm thành Đại La, giết Lương Khắc Trinh, đuổi Thứ sử Lý Tiến, giết tướng Trình Bảo, phá tan quân Nam Hán và xưng là Tiết độ sứ. Năm 937, Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giết chủ, đoạt chức Tiết độ sứ. Năm 938, Ngô Quyền (con rể Dương Đình Nghệ) đánh tan quân Nam Hán, giết chết tướng giặc là Hoằng Thao trên sông Bạch Đằng, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ trên đất Đại Việt.

Năm 944, Ngô Quyền mất, truyền ngôi cho con trai là Ngô Xương Ngập. Em vợ Ngô Quyền là Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, xưng là Bình vương. Năm 950, Ngô Xương Văn (con trai thứ hai của Ngô Quyền) truất ngôi của Dương Tam Kha, xưng là Nam Tấn vương và phong anh trai là Xương Ngập làm Thiên Sách vương. Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh nổi dậy chống lại Nam Tấn vương và Thiên Sách vương. Năm 966, thổ hào nhiều nơi nổi lên, mỗi người hùng cứ một vùng.  Sử cũ gọi là “Loại thập nhị sứ quân”. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp được các sứ quân, xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Năm 979, Đỗ Thích giết Đinh Tiên hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn. Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi, Lê Hoàn xưng Phó vương. Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp nổi lên chống Lê Hoàn, nhưng thất bại, đều bị giết. Năm 980, vua Tống sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực chia hai đường thủy bộ sang xâm lược nước ta. Tháng 7 năm đó, Thái hậu Dương Vân Nga trao long cổn cho Lê Hoàn. Lê Hoàn lên ngôi vua. Năm 981, cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất do Lê Đại Hành lãnh đạo giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Đại Hành ban hành các chính sách nhằm phát triển đất nước, củng cố quốc phòng, trọng dụng nhân tài, trong đó có các nhà sư.

Để tránh nạn can qua, Lê Đại Hành có chính sách đối ngoại rất mềm mỏng, khôn khéo nhưng kiên quyết đối với nhà Tống. Để giúp triều đình thực hiện công việc này một cách có hiệu quả, cần phải dùng những người có trình độ. Thời đó, những người có trình độ học vấn và am hiểu thời cuộc có lẽ chỉ có các nhà sư và đạo sĩ. Trong số các vị tăng sĩ đó, nhà vua đã nhận ra tài năng và phẩm chất của Đỗ Pháp Thuận.

Chúng ta biết rằng, thời kỳ Lê Đại hành trị vì, đất nước Đại Việt không ít cao tăng, nhưng chúng ta chỉ thấy Thiền uyển tập anh chép: khi

triều Lê mới sáng nghiệp, Đỗ Pháp Thuận là người có công định liệu sách lược, trù tính kế hoạch (nguyên văn 運籌定策預有力) mà không thấy chép tình tiết này đối với nhiều vị cao tăng cùng thời. Điều đó, chứng tỏ, Đỗ Pháp Thuận là một vị tăng sĩ có vị trí quan trọng đối với triều đình đương thời.

Hai chi tiết sau đây khiến chúng ta thấy, một mặt, nhà vua rất trọng vọng, tin tưởng ông, nhưng mặt khác, Đỗ Pháp Thuận là người có uy

tín lớn đối với triều đình và có tinh thần nhập thế triệt để. Đó là chi tiết: nhà vua thường ủy thác cho nhà sư các công việc văn hàn và năm 986, khi Nguyễn Giác được cử sang nước ta thông hiếu, Đỗ Pháp Thuận được nhà vua cử đóng giả làm tân lại để đón tiếp Lý Giác và xem xét cử động của y.

Một chi tiết nữa cũng rất quan trọng để thấy Hoàng đế Lê Đại Hành đã tin tưởng và trọng dụng Thiền sư Đỗ Pháp Thuận như thế nào khi

được hỏi về vận nước dài ngắn thế nào. Chúng ta biết rằng, trong cơ cấu tổ chức của một vương triều, dù có đơn giản, gọn nhẹ đến đâu cũng có những cơ quan chuyên môn giúp việc hoàng đế với quần thần rất đắc lực và tin cậy. Việc tìm hiểu ý kiến của các các cận thần dâng kế sách làm cho vận nước được dài lâu là việc thường làm của các vị minh quân. Vào thời Tiền Lê, chắc chắn Lê Đại hành đã hỏi ý kiến của các cận thần và trong số họ chắc chắn có người đã thể hiện quan điểm. Nhưng nhà vua vẫn không quên hỏi một vị cao tăng để biết quan điểm của tầng lớp đặc biệt này. Ngài không hỏi ai mà chỉ hỏi Đỗ Pháp Thuận, điều đó chứng tỏ, nhà vua rất tin tưởng, tôn trọng vị tăng sĩ này và vị tăng sĩ tài ba đó đã có vai trò rất quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước của Lê Đại Hành. Sở dĩ Đỗ

Pháp Thuận có được sự tin tưởng và tôn trọng đó là vì ông là một nhà tu hành không màng danh lợi, giúp dập nhà vua không phải vì vinh hoa phú quí. Sách “Thiền uyển tập anh” cho chúng ta biết: “Khi thiên hạ thái bình, sư không nhận chức tước của triều đình phong thưởng” (sđd, tr.180). Đây là cách hành xử của một vị chân quân tử theo quan điểm Nho gia, nhưng cũng là cách hành xử của các anh hùng dân tộc Việt Nam đã được dân gian hóa, tiêu biểu như Thánh Gióng, Thạch Sanh,...

3. Ý thức công dân trong con người Thiền sư Đỗ Pháp Thuận

Từ xa xưa, các Nho sĩ Việt Nam có phương châm xử thế “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Là một tăng sĩ có am hiểu Nho giáo,

Đỗ Pháp Thuận chắc chắn ý thức được trách nhiệm công dân của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước dưới triều Lê Đại Hành. Chính vì vậy, ngài dốc sức cùng nhà vua trù liệu sách lược dựng nước và giữ nước cùng nhà vua. Đặc biệt, ngài đã thẳng thắn thể hiện quan điểm của mình khi được nhà vua hỏi về vận nước dài ngắn. Quan điểm ấy được thể hiện cô đọng trong 20 từ:

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh

(Vận nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên địa các

Xứ xứ hết đao binh).

Đằng (藤) là một loại thực vật, thân dây leo, lạc (络) là quấn quít vào nhau. Lê Mạnh Thát dịch là “mây quấn”. “Đăng lạc” ở đây cần được hiểu là sự đoàn kết, gắn bó với nhau. Ý của Đỗ Pháp Thuận là muốn vận nước được lâu dài thì phải biết đoàn kết toàn dân như loại dây leo yếu ớt, muốn sống được phải quấn quít với nhau. Nếu làm ngược lại thì vận nước sẽ ngắn. Như vậy, quan điểm thứ nhất của Đỗ Pháp thuận để giữ được vận nước được dài lâu là phải đoàn kết. Quan điểm thứ hai của thiền sư là khi đất nước đã thái bình rồi thì “Vô vi cư điện các”. Ở đây cần hiểu đúng nội hàm của khái niệm vô vi mà Đỗ Pháp Thuận dùng. Chúng ta biết rằng, khái niệm vô vi (無为) được các nhà kinh điển của cả hai tôn giáo dùng, đó là Lão Tử và đức Phật Thích Ca. (Còn Khổng Tử dùng khái niệm vô vi (無違) nghĩa là không làm gì trái với đạo lý, khi trả lời Mạnh Ý Tử trong thiên “Vi chính”, sách Luận ngữ). Lão Tử sử dụng khái niệm vô vi (無为) khi thể hiện tư tưởng triết học của mình trong tác phẩm “Đạo đức kinh”. Tại chương 8, Lão Tử nói: “Chỉ không tranh chấp mới không lo lắng”, chương 37, ngài lại nói: “Không tham dục, luôn tĩnh lặng, thiên hạ sẽ tự ngay thẳng”, tại chương 66, Lão Tử nói rõ thêm: “Vì không tranh với ai nên thiên hạ không có kẻ nào tranh với mình”,... Còn khái niệm vô vi ((無为) được Đỗ Pháp Thuận dùng trong câu “Vô vi cư điện các”, theo GS Lê Mạnh Thát là thuật ngữ của Phật giáo. Thuật ngữ “vô vi” này có nghĩa là: cẩn thận, không kiêu ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lắm bụi bậm của lục tình, không để cái ái nhỏ như tóc tơ che dấu trong lòng mình thì các niệm lắng diệt.

Theo chúng tôi, để hiểu đúng khái niệm “vô vi” mà Đỗ Pháp Thuận dùng khi trả lời vua Lê Đại Hành, chúng ta cần hiểu, ngài đã dùng nội hàm của khái niệm này của Phật và của cả Lão Tử. Ý thức công dân của Đỗ Pháp Thuận còn được thể hiện ở việc: khi triều đình một người có tài đối đáp, Ngài đã sẵn sàng thay đổi quần áo, cải trang làm người phục vụ ở bến đò (tân lại) với nhiệm vụ xem xét hành động của Nguyễn Giác trong những ngày y hoạt động trên đất nước ta. Bằng tài năng đối đáp và trí tuệ siêu việt của mình, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận đã khiến sứ nhà Tống Nguyễn Giác phải phục nể và vị thế của vương triều Tiền Lê được tôn trọng.

Cho đến nay, nhiều bộ sách lịch sử Phật giáo và lịch sử văn học Việt Nam có dành cho Đỗ Pháp Thuận và bài “Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn” vị trí trang trọng: sách “Thiền uyển tập anh” (thời Trần), “Thiền uyển kế đăng lục” (Phúc Điền hòa thượng biên soạn thế kỷ XIX), “Hợp tuyển văn học Việt Nam” của nhóm Lê Quí Đôn (1960), “Thơ văn Lý Trần” (Viện Văn học, 1977),... GS Lê Mạnh Thát cho rằng, bài “Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn” của Đỗ Pháp Thuận và những bài kệ của Khuông Việt thiền sư, Vạn Hạnh thiền sư ra đời vào thế kỷ X thuộc vào dòng văn học thời sự và đó là chủ lưu của văn học Việt Nam thời kỳ đó. Tóm lại, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử Phật giáo và lịch sử văn học Việt Nam. Mặc dù, trong sự nghiệp truyền đăng, các sách truyền đăng lục không ghi rõ các thế hệ truyền thừa của ngài; trong sự nghiệp trước tác, ngoài hai câu thơ đọc khi chèo thuyền chở Nguyễn Giác trên sông và bài “Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn”, sách “Thiền uyển tập anh” chỉ ghi: “Sư từng soạn sách “Bồ tát hiệu sám hối văn” một quyển lưu truyền ở đời”, ngoài ra không có bài kệ, bài tán nào, nhưng ngài lại có vị trí đặt biệt trong lịch sử Phật giáo và lịch sử văn học Việt Nam mà không ai có thể thay thế được. Chúng tôi nghĩ rằng, tỉnh Thanh Hóa có thể xem xét lấy tên Đỗ Pháp Thuận đặt tên một đường phố ở thành phố hoặc một thị xã nào đó.
-
Chú thích:

Theo GS Lê Mạnh Thát, câu “Nga nga lưỡng nga nga,...” chỉ là nhuận sắc tinh tế bài thơ “Vịnh nga” mà Lạc Tân vương làm khi mới 10 tuổi và “Toàn Đường thi” tập 2 quyển 79, tờ 864 chép: 

Nga nga lưỡng nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca.
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba.

Như vậy, cả Nguyễn Giác và Đỗ Pháp Thuận chỉ thay đổi vài ba từ trong bài thơ của Lạc Tân Vương đời Đường khi xướng lên thôi.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép là Lý Giác, có lẽ là theo cách chép của đời Trần.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, NXB KHXH, H. 1972, tr.171- 172: “Giác càng lấy làm lạ. Khi về sứ quán gửi thơ cho Thuận rằng:

Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu.
Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến;
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu,
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch;
Xa trì thanh chướng phiếm trường lưu,
Thiên ngoại viễn thiên ưng viễn chiếu,
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

“Thuận đem thơ này dâng vua. Vua cho gọi nhà sư Ngô Khuông Việt cho xem. Khuông Việt nói: “ Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống”.

Nguyễn Quang Khải
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6/2016

Bài Liên Quan:

  • Vận nước nhìn từ Bài thơ 'Quốc Tộ' của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận
  • Bài thơ 'Vận nước' và tư tưởng chính trị của thiền sư Pháp Thuận
  • Thiền sư Pháp Thuận và bài thơ Vận nước
  • Dấu ấn Mật tông ở bộ tượng Di Đà Tam Tôn xưa nhất Việt Nam
  • Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Văn Khuông Việt, Pháp Thuận Và Vạn Hạnh

các bài khác

  • Hoà Thượng Thích Trí Thủ: Dáng từ trên đồi Trại Thủy 25/10/2016
  • Tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Độ (1894 – 1979) 8/5/2023
  • ĐỨC ĐỆ NHẤT TĂNG THỐNG GHPGVNTN 12/2/2023
  • Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định 16/8/2022
  • Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ 20/7/2022
  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh 24/1/2022
  • HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979) 5/11/2019
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh 29/11/2021
  • Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh 21/11/2021
  • Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021) 21/4/2021
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *
  
Khoá An Cư Kiết Hạ Chùa Thiên Ấn PL 2567 -DL 6.2023

Từ ngày 20/06/2023 đến ngày 27/06/2023 - 3.5 Quý Mão 10.5 Quý Mão.

Xem chi tiết

  • Tin xem nhiều
  • Phản hồi
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch

28/9/2014
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân

31/10/2014
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?

5/9/2014
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)

27/8/2014
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu

6/11/2014
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

6/8/2014
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát

6/8/2014
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ

9/9/2014
Toàn cảnh Chùa A Di Đà
Toàn cảnh Chùa A Di Đà

9/9/2014
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập

12/12/2014
PHÚC
9/6/2023

Bài viết rất có ý nghĩa trong thế giới ta bà. Kính chúc Ngài Samon hạnh phúc trong phật pháp.

Tran van Thịnh
8/4/2023

Danh sách thiền tự ở Úc trong bài viết về thiền sư Thích Thanh Từ cần bổ sung thêm thiền đường Võ ưu địa chỉ 6 Fraizer st Canley valve NSW

Cao Thị Huyền
14/1/2023

Tác giả của bài này là một ác quỷ. Dám xuyên tạc, mỉa mai bậc Chân sư thì chỉ có thể là tay sai hoặc quyến thuộc của ma vương mà thôi. Loại này giống như Đề Bà Đạt Đa mưu hại Đức Phật nên sẽ phải chịu hàng nghìn thậm chí hàng triệu kiếp tan xương nát thịt ở dưới ngục hình tối tăm

Huỳnh Việc Trung
24/7/2022

Tấm này theo mình thì hoàn toàn không phải. Theo mình biết thì bên Thái Lan có một vị đại sư tên là Luang Phor Thuad, các bạn có thể search tên sư trên google. Khi sinh ra đã có nhiều điềm lành, sư có nhiều thần thông. Mình có xem nhiều bức ảnh của sư trên mạng, mình thấy sư rất đẹp, khuông mặt từ bi, quang minh,rực rỡ. Mình nghe đồn sư là bồ tát bất thoái chuyển, đã đạt được Pháp Thân nên thân thể sư rất đẹp. Một vị bồ tát thôi là đã đẹp đẽ như vậy, mang nét đẹp xuất thế gian, huống chí là đức Phật người đã đạt được giác ngộ rốt ráo. Đức Phật sẽ đẹp hơn vậy gấp trăm nghìn lần, nên hiển nhiên cái bức ảnh trên kia không phải ảnh Phật! Bạn nào muons tìm hiểu về sư Luang Phor Thuad thì search là "Luang Phor Thuad","Luang Phor Thuad wax","Luang Phor Thuad statue". Hình ảnh của Sư dù ở hình thức nào, tranh vẽ, tượng hay tượng sáp đều rất đẹp. Nếu ai là đệ tử chân chính của đức Phật thì nên tìm hiểu về sư, ngắm ảnh sư,thật hiếm hoi và quý giá mấy được ngắm ảnh mọt vị bồ tát đẹp đẽ như vậy.

Nguyễn Đạt Niệm
11/4/2022
PHẬT ĐẢN LÀ LỄ HỘI TÔN GIÁO TOÀN CẦU THẾ GIỚI ĐƯƠC LIÊN HIỆP QUỐC TÔN VINH .THÌ GHPG VN HIỆN TẠI PHẢI CÓ CHỈ ĐẠO THỐNG NHẤT TỪ CẤP TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP GH CŨNG NHƯ CÁC TỰ VIỆN CẢ NƯỚC PHẢI THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC TỔ CHỨC TẤT CẢ ĐỀU HƯỚNG VÊ CÚNG DƯỜNG NGÀY PHẬT ĐẢN SINH. GH KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG CHO NGÀY PHẬT ĐẢN THÌ GH VỊ CHỦ TỊCH HĐTS PHẢI CHỈ ĐẠO CHO CÁC CẤP GH BẰNG CÔNG VĂN THÔNG BẠCH CHO KỊP MỪNG PHẬT ĐẢN SẮP ĐẾN..
Cuong Nguyen Lam
11/4/2022
Cảm ơn tác giả đã nói lên đúng thực trạng của PG, thật ra hàng Phật tử rất mong mỏi được sống trong không khí Rước Phật trên phố mà giờ đây lại cắt cả lễ Đài ...Trong khi đó lễ Noel không một thông bạch nào từ Hội đồng Giám mục Việt Nam mà chỉ có vị linh mục viết thư đến Học sinh và giáo chức ..nội dung khuyên giáo dân giới thiệu Lễ Niel đến với các bạn và đồng nghiệp của mình. Còn của PG ra văn bản tổ chức lễ Phật Đản ...đôi lúc thiếu cụm từ tổ chức xe Rước Phật và kiệu Phật thì các đơn vị PG tổ chức có nơi bị chính quyền đưa ra bản thông bạch không có nói đến rồi gây khó khăn cho việc tổ chức xe Rước Phật...Chưa kể có năm ở Đăk Lăk, hay huyện Hóc Môn_ TP HCM bị cấm cả trwo cờ PG quanh các con đường quanh chùa. Trong khi đó Noel họ treo đèn, làm hang đá ra đường đầu hẻm và cờ rợp trời mà có ai cấm đâu?
Trọng Tín
11/4/2022
Nên đấu tranh cho ngày phật đản là quốc lễ ... ngày đó toàn dân bắt buộc nghe thuyết pháp...
Tran Le Duyen
24/2/2022

A Di Da Phat Kinh Thua Yeu cau Update dia chi tren mang

Phước mỹ
5/2/2022

Tôi đồng quan ý kiến của bạn, hình này cần phải kiểm chứng lại nguồn gốc, hình này không giống như lời Phật dạy trong kinh điển. Chúng ta không nên phổ biến.

Nguyễn vih
26/1/2022
Tôi cảm thấy rất biết ơn

hình ảnh hình ảnh

» Xem tất cả

LỄ TƯỞNG NIỆM TRƯỞNG LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ TẠI CHÙA THIÊN ẤN, Sydney (2.12.2023)
LỄ TƯỞNG NIỆM TRƯỞNG LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ TẠI CHÙA THIÊN ẤN, Sydney (2.12.2023) (21 hình)
ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL.2567 (10.09.2023)
ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL.2567 (10.09.2023) (68 hình)
Lễ tự tứ Chùa Thiên Ấn ngày 27.06.2023
Lễ tự tứ Chùa Thiên Ấn ngày 27.06.2023 (35 hình)
Đại lễ tưởng niệm 60 năm Bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân & Hiệp kỵ
Đại lễ tưởng niệm 60 năm Bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân & Hiệp kỵ (40 hình)
Khai hạ Kiết giới An cư Chùa Thiên Ấn ngày 20.6.2023
Khai hạ Kiết giới An cư Chùa Thiên Ấn ngày 20.6.2023 (39 hình)
Huý Nhật Năm Thứ 27 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Quý Mão (5.2023)
Huý Nhật Năm Thứ 27 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Quý Mão (5.2023) (136 hình)

Chân Dung Tăng Già Chân Dung Tăng Già

  • Tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Độ (1894 – 1979)
    Tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Độ (1894 – 1979)
  • ĐỨC ĐỆ NHẤT TĂNG THỐNG GHPGVNTN
    ĐỨC ĐỆ NHẤT TĂNG THỐNG GHPGVNTN
  • Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định
    Tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định
  • Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ
    Tiểu sử Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California. Hoa Kỳ
  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
    Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
  • Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
    Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
  • Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
    Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
  • Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
    Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
  • Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
    Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
  • Pháp Âm
  • Phim Phật Giáo
  • Âm Nhạc
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Tiểu Tạng Thanh Văn - Kinh Tạp A Hàm 827
  • Ðại Nạn Trước Mắt, Quay Ðầu Là Bờ 16345
  • Khac Phuc Phien Nao Tap Khi 16516
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P1 12779
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P2 12368
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 1/2 11567
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 2/2 11535
  • An Lạc Từ Tâm 15014
  • Phật Học Vấn Đáp 01, Lý Bỉnh Nam 14952
  • Phật Học Vấn Đáp 02, Lý Bỉnh Nam 14427
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Buddha - Đức Phật - (tập 55/ 55): Kết thúc phim... 7680
  • Buddha - Đức Phật - (tập 54/ 55): Buddha nhập... 8337
  • Buddha - Đức Phật - (tập 53/ 55): Bữa ăn cuối... 11911
  • Buddha - Đức Phật - (tập 52/ 55): Mogalana và... 8404
  • Buddha - Đức Phật - (tập 51/ 55): Buddha cứu độ... 7981
  • Buddha - Đức Phật - (tập 50/ 55): Vua Ajātasattu... 3173
  • Buddha - Đức Phật - (tập 49/ 55): Năm pháp phá... 9663
  • Buddha - Đức Phật - (tập 48/ 55): Tinh xá... 9290
  • Buddha - Đức Phật - (tập 47/ 55): Thiếu nữ mang... 10477
  • Buddha - Đức Phật - (tập 46/ 55): Anan gặp nạn,... 9437
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Mừng Xuân Di Lặc 15571
  • Mùa Xuân Em Đi Lễ Chùa 15664
  • Tổng hợp Nhạc ThiềnThiền - Tĩnh Tâm - An Nhiên 14609
  • Dòng Sông Tôi Gọi Tên Em 14416
  • Một Chuyến Giả Từ 14199
  • Nối Một Nhịp Cầu 15127
  • Vẫn là Em Thơ 14757
  • Chú Cuội Dỗi Hờn 6948
  • Quê Hương Nguồn Cội 14443
  • Như Giọt Sương Đêm 15525
  • [ Xem tất cả ]

Từ điển phật giáo Từ điển phật giáo

  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Thượng
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Hạ
  • Từ Điển Pháp Số Tam Tạng
  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam

lời vàng ý ngọc

  • NHỮNG CÂU ĐÁNG SUY GẪM
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY
  • 10 điều sau là cốt lõi hạnh phúc
  • Lời hay ý đẹp
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ CUỘC SỐNG
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (9)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (8)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (7)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (6)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (5)

thư viện sách

Kỷ yếu Tri ân Hòa...
'Đại Tạng Kinh...

lịch âm dương

Kênh truyền hình phật giáo

Nhạc Phật Giáo Truyền hình Srisambodhiuk Truyền hình Sen Việt
Truyền hình DahamgaganaTv Truyền hình Shraddha Dhamma and Meditation Internet TV
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia - Tel: (+02) 87046317
Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com
Copyright © 2014 Chùa A Di Đà. All Rights Reserved. Powered by BizMaC