Bạn Đường Lâm thân mến!
Ngũ vị tân là năm loại gia vị cay nồng rất phổ biến, gồm hành, kiệu, tỏi, nén, hẹ (thay cho hưng cừ, loại gia vị có mùi như tỏi, mọc chủ yếu ở Ấn Độ, Trung-Bắc Á, Tây Tạng, Tứ Xuyên thuộc Trung Quốc; không có ở xứ ta).
Kiêng cữ ngũ vị tân là một trong những điều mà hàng đệ tử Phật quan tâm, chú trọng trong ăn uống hàng ngày. Tuy nhiên kiêng thế nào, nếu không kiêng thì tác hại đối với việc tu tập ra sao, lại có nhiều quan điểm khác nhau.
“Lúc Đức Phật ngự tại thành Rājagaha (Vương-xá), Veluvana. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ngồi giảng Pháp có hội chúng đông đảo vây quanh. Có vị Tỳ-kheo nọ vừa mới nhai tỏi. Và vị ấy đã ngồi ở một chỗ riêng biệt (nghĩ rằng): “Chớ để các Tỳ-kheo bị quấy rối”. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy vị Tỳ-kheo ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt; sau khi nhìn thấy, Ngài đã hỏi các Tỳ-kheo rằng:
- Này các Tỳ-kheo, vì sao Tỳ-kheo ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt vậy?
- Bạch Ngài, vị Tỳ-kheo ấy vừa mới nhai tỏi. Và vị ấy (nghĩ rằng): “Chớ để các Tỳ-kheo bị quấy rối” nên đã ngồi ở một chỗ riêng biệt.
- Này các Tỳ-kheo, sau khi ăn một vật lại bị loại ra khỏi bài giảng pháp như thế này thì vị Tỳ-kheo có nên nhai vật ấy không?
- Bạch Ngài, điều ấy không nên.
- Này các Tỳ-kheo, không nên nhai tỏi; vị nào nhai thì phạm tội Tác ác”.
“Vào lúc bấy giờ, Đại đức Sāriputta (Xá-lợi-phất) bị bệnh đau bụng gió. Khi ấy, Đại đức Mahāmoggallāna (Mục-kiền-liên) đã đi đến gặp Đại đức Sāriputta, sau khi đến đã nói với Đại đức Sāriputta điều này:
- Này Đại đức Sāriputta, trước đây khi bị bệnh đau bụng gió, Đại đức được dễ chịu nhờ vật gì?
- Này Đại đức, đối với tôi nhờ tỏi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên Đức Thế Tôn.
- Này các Tỳ-kheo, Ta cho phép nhai tỏi do duyên cớ bệnh”.
(Tiểu phẩm [Cullavagga], tập 2, chương 5 Các tiểu sự)
Như vậy, vào thời Đức Phật, người xuất gia ăn tỏi (ngũ vị tân nói chung; tạo ra mùi cay hôi nồng nặc) bị Phật trách cấm, phạm tội Tác ác (thành tâm sám hối sẽ hết tội). Nhưng khi bị bệnh, cần ăn tỏi (ngũ vị tân nói chung) thì Đức Phật cho phép dùng. Các bộ luật như Tăng-kì, Thập tụng, Ngũ phần đều nói: “Nếu không có cách nào khác để trị bệnh thì cho phép được dùng ngũ tân, nhưng không được đến giảng đường, cũng không được nhận lời thỉnh cùng Tăng đi thọ trai... Sau khi mãn bảy ngày thì tắm rửa sạch sẽ, mới được vào trong chúng”. Có thể xem đây là quan điểm của Đức Phật về kiêng ngũ vị tân cho hàng đệ tử xuất gia.
Tuy vậy, một số kinh điển Hán tạng lại có quan điểm khác, xem ăn ngũ vị tân là vấn đề rất nghiêm trọng, nhiều tác hại như: Chư thiên xa lánh, ma quỷ thân gần, tụng đọc kinh luận sẽ mắc tội, không tạo ra công đức thậm chí là bị đọa địa ngục v.v… Vậy, người tu học hậu thế chúng ta phải vâng theo quan điểm nào? Thiển nghĩ, nếu cùng một vấn đề mà kinh điển các thời kỳ nói khác nhau, nên y theo các kinh văn gần với thời đại của Đức Phật nhất.
Vì thế, trong tinh thần Trạch pháp và Trung đạo, ai kiêng được ngũ vị tân thì tốt, riêng bạn là Phật tử chỉ ăn chay kỳ (ít nhất 2 ngày một tháng), do điều kiện chủ quan và khách quan mà chưa kiêng được thì vẫn “tụng kinh, trì chú, niệm Phật hồi hướng vãng sinh” bình thường, chắc chắn những thiện pháp ấy sẽ mang lại công đức phước báo, không có gì phải hoang mang cả.
Chúc bạn tinh tấn!