Đức Thánh Trần Hưng Đạo
1. Chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258):
Ở lần thứ nhất, ta gọi là quân Mông Cổ vì người Mông Cổ chưa chiếm hết Trung Quốc, còn hai lần sau, ta gọi là quân Nguyên Mông (hoặc Mông Nguyên) vì người Mông Cổ đã thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Nguyên, lúc đó hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (cháu nội của Thành Cát Tư Hãn).
Vào thế kỷ thứ 13, đế quốc Mông Cổ đã trải dài từ bờ Thái Bình Dương đến tận bờ Hắc Hải. Ở Trung Quốc, quân Mông Cổ đã đánh bại các nước Liêu, Kim, Tây Hạ, chỉ còn Nam Tống và Đại Lý (Vân Nam). Đại hãn của Mông Cổ lúc đó là Mông Kha (cháu nội của Thành Cát Tư Hãn và là anh của Hốt Tất Liệt) đã đưa ra kế hoạch đánh Nam Tống như sau:
+ Mông Kha chỉ huy ba đạo quân từ phía Bắc đánh xuống Nam Tống.
+ Ngột Lương Hợp Thai đem quân tiêu diệt Đại Lý ở Vân Nam, sau đó tràn xuống đánh bại nước ta để làm bàn đạp đánh vào sau lưng Nam Tống.
Ngột Lương Hợp Thai cử hai đoàn sứ giả đến đe dọa nước ta nhưng đều bị vua Trần Thái Tông tống giam vào ngục. Sau đó, nhà vua cử Trần Hưng Đạo (tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước hiệu Hưng Đạo Vương, là cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột) đem quân lên biên giới vừa dò la tin tức vừa chống giặc. Trần Hưng Đạo lúc này chưa tới 30 tuổi, là người trung thành, quả cảm và có tài thao lược nên được nhà vua tin tưởng. Về phần Ngột Lương Hợp Thai, chờ đợi mãi không thấy hai đoàn sứ giả trở về, nên lập tức tiến quân. Trước thế giặc đang mạnh, Trần Hưng Đạo cho quân rút lui về và hợp quân với vua Trần Thái Tông cùng đánh giặc tại Bình Lệ Nguyên. Sau đây, tôi xin nói về trận Bình Lệ Nguyên và trận Phù Lỗ để thấy sức mạnh thiện chiến của quân đội Mông Cổ và sự chiến đấu ngoan cường của vua tôi và quân đội nhà Trần:
+ Trận Bình Lệ Nguyên: Vua Trần Thái Tông cho dàn quân tại cánh đồng Bình Lệ Nguyên để chống giặc, nơi đây có những chiến hào thiên nhiên rất thuận tiện cho quân ẩn nấp. Ngoài ra, nhà vua còn cho thuyền đậu sẵn ở khúc sông phía dưới để chờ đón đại quân rút lui nếu thế trận trên bờ bất lợi. Lúc này, Ngột Lương Hợp Thai đã tiến quân đến bên kia bờ sông, đối mặt với đại quân của ta. Hắn cho đóng quân lại và chuẩn bị điều binh tấn công: Tướng tiên phong của Mông Cổ là Trê Trếch Đu (Triệt Triệt Đô) dẫn 1000 quân đi trước, vượt qua sông nhưng không đánh ngay mà chờ cánh quân tập hậu đánh vào sau lưng quân Trần thì sẽ xông ra cướp thuyền, chặn đường rút lui và bắt sống vua Trần. Việc vượt sông tập kích phía sau do A Châu (con trai của Ngột Lương Hợp Thai) đảm nhiệm, phối hợp với đại quân của Ngột Lương Hợp Thai tấn công chính diện vào quân Trần. Trước sức mạnh hung hãn của quân Mông Cổ thiện chiến, vua Trần Thái Tông vẫn bình tĩnh chỉ huy quân tướng cự địch. Lúc đầu, nhờ địa hình chiến trường phức tạp, quân Trần không bị phô ra nên chiếm ưu thế, hạ gục nhiều tên lính Mông Cổ. Nhưng quân Mông Cổ lại gồm toàn những tay thiện xạ, bách phát bách trúng. Thấy không tấn công được người, chúng dùng cung tên bắn vào voi và ngựa chiến của ta khiến cho những con vật này hoảng sợ, lồng lộn lên, giày xéo quân nhà, làm rối loạn đội hình. Cuối cùng, thế trận bị vỡ, vua Trần Thái Tông cho đại quân rút lui theo đường sông như đã định. Lúc này, quân của Trê Trếch Đu xông ra cướp thuyền, nhưng quân ta chống trả quyết liệt, và đại quân ta rút lui vừa tới đã đánh lui chúng. Vua tôi và quân đội cùng xuống thuyền rút lui. Thấy không bắt được vua Trần, quân của Trê Trếch Đu chạy dọc theo bờ sông, dùng cung tên bắn theo. Lê Tần lập tức lấy tấm ván thuyền che cho vua Trần Thái Tông. Đến khi thuyền vượt ra khỏi tầm bắn, tấm ván chi chít tên cắm như lông nhím. Thế là vua Trần Thái Tông thoát chết. Ngột Lương Hợp Thai tức giận, cho đòi Trê Trếch Đu lên hỏi tội. Trê Trếch Đu sợ quá, uống thuốc độc tự vẫn.
* Ở lần này, quân ta chưa biết hết sở trường của kỵ binh Mông Cổ là cưỡi ngựa bắn cung bách phát bách trúng trên địa hình bằng phẳng, rộng lớn nên mới dàn quân đánh nhau ở đồng bằng và voi chiến của ta nếu bị bắn trúng chỗ hiểm thì sẽ lồng lộn lên, giày xéo quân nhà nên mới cho voi ra trận, như vậy là trúng vào chiến thuật sở trường của quân Mông Cổ. Ở hai lần sau, ta đã rút kinh nghiệm nên tránh giao chiến với chúng ở đồng bằng mà tận dụng địa hình rừng núi, sông ngòi hiểm trở để hạn chế sở trường của giặc, đồng thời tận dụng sức voi để vận chuyển quân nhu, quân dụng chứ không cho voi xông trận nữa.
+ Trận Phù Lỗ: Sau thất bại ở Bình Lệ Nguyên, vua Trần cho quân rút lui qua sông Phù Lỗ và dàn quân bên này sông để chống giặc, sau khi qua sông thì phá cầu Phù Lỗ để quân địch không thể vượt sông được. Nhưng quân Mông Cổ rất giàu kinh nghiệm vì đã tung hoành khắp thế giới. Chúng cưỡi ngựa dọc theo bờ sông, dùng cung tên bắn xuống nước để dò độ nông sâu: nếu là chỗ cạn mà ở dưới có đá thì tên bật lên nhanh; hoặc là chỗ cạn mà ở dưới có bùn cát thì tên sẽ cắm xuống, không bật lên nữa; còn nếu chỗ đó nước sâu thì tên sẽ nổi lên từ từ. Gặp chỗ cạn chúng sẽ cưỡi ngựa vượt sông, như thế sẽ hành quân rất nhanh. Thấy vậy, vua Trần Thái Tông quyết định rút lui về Thăng Long. Phú Lương Hầu - một tướng trong dòng họ nhà Trần - đã đem quân chặn địch. Ông đã anh dũng hy sinh nhưng triều đình đã rút lui an toàn.
Sau khi rút lui về Thăng Long, triều đình nhà Trần đã áp dụng kế sách "vườn không nhà trống" để bỏ đói quân giặc, nhân dân sơ tán, còn triều đình và đại quân rút lui về Thiên Mạc. Bà Linh Từ Quốc Mẫu (tức là Trần Thị Dung, vợ của Thái Sư Trần Thủ Độ) đã đứng ra quán xuyến vợ con của hoàng gia và các tướng lĩnh, lại lo về hậu cần, lương thực, huy động quân dân thu nhặt vũ khí rơi vãi để chồng mình cùng với vua và triều đình lo bàn kế sách chống giặc. Khi đã rút lui về Thiên Mạc, một lần vua đến gặp Thái Sư Trần Thủ Độ để hỏi han kế sách và thế trận. Trần Thủ Độ nói: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!", và ông đã cùng vua và các tướng lĩnh bàn bạc kế sách, lo về vũ khí, lương thực, củng cố quân lực, nâng cao sĩ khí, dưỡng sức quân để chờ đợi thời cơ. Trong khi đó, cảnh"vườn không nhà trống" ở Thăng Long đã khiến quân Mông Cổ đói rét và chán nản. Bọn chúng vô cùng mệt mỏi vì không kiếm được cái ăn, mất hết ý chí và tinh thần chiến đấu. Nắm lấy thời cơ đó, triều đình nhà Trần quyết định phản công. Đoàn thuyền chở đại quân ta ồ ạt tiến về Thăng Long với ý chí mạnh mẽ và tinh thần hăng hái, vì những ngày qua đã được dưỡng sức và ăn uống đầy đủ. Đoàn thủy quân đối trận với quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu. Quân ta khí thế đang hăng, càng đánh càng thắng. Cuối cùng, quân Mông Cổ đã phải tháo chạy. Chạy về biên giới, chúng bị các dân tộc anh em ở miền núi mai phục và chặn đánh quyết liệt. Sau cùng, chúng cũng dẫn tàn quân tháo chạy về nước. Quân ta tiến vào giải phóng Thăng Long, và chuẩn bị đón Tết Mậu Ngọ (1258), một cái Tết thanh bình.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258), Trần Hưng Đạo chưa đóng vai trò Tổng chỉ huy toàn quân đội, nhưng lòng trung thành, sự quả cảm và tài năng về quân sự của ông đã khiến cho vua Trần Thái Tông và Thái Sư Trần Thủ Độ tin tưởng, giao cho ông chỉ huy một cánh quân chủ lực. Với cương vị này, ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do thám, thông báo tình hình chính xác và kịp thời để vua và triều đình tổ chức, dàn thế trận để chống giặc. Ông đã cùng với triều đình chống giặc ở Bình Lệ Nguyên, cùng triều đình rút lui và phản công quân Mông Cổ ở bến Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long. Những bài học kinh nghiệm quý báu trong cuộc kháng chiến này cùng với thiên tài quân sự của ông sẽ được phát huy cao độ trong hai lần kháng chiến tiếp theo.
2. Chiến thắng giặc Nguyên Mông lần thứ hai (1285):
Để chuẩn bị đánh Đại Việt, nhà Nguyên sai Toa Đô đem 10 vạn quân đánh Chiêm Thành (phía Nam Đại Việt) làm bàn đạp đánh vào phía Nam Đại Việt, còn Thoát Hoan (con của Hốt Tất Liệt) đem 50 vạn quân đánh Đại Việt từ phía Bắc. Thoát Hoan sai sứ giả đem thư sang gặp Trần Hưng Đạo, nói rằng hắn chỉ mượn đường để đánh Chiêm Thành mà thôi. Trần Hưng Đạo xé thư, đuổi sứ giả về.
Đầu năm 1285, Thoát Hoan chia quân làm nhiều mũi tiến công ải Nội Bàng, nơi đóng đại quân của Trần Hưng Đạo. Thế giặc quá mạnh. Các cánh quân Trần phải lui dần về phía sau. Chẳng bao lâu, chúng đã chiếm được ải Chi Lăng và tràn vào Đại Việt. Trước thế giặc đang mạnh, đoàn chiến thuyền của Trần Hưng Đạo phải lui về giữ châu Lạng Giang (Bắc Giang), sau đó lại rút về giữ Vạn Kiếp, nơi đóng phủ đệ của Trần Hưng Đạo và là một trong những chốt phòng thủ quan trọng của nhà Trần. Thoát Hoan lại cho quân tấn công vào Vạn Kiếp. Quân Trần chống cự mãnh liệt suốt mấy ngày, chém chết một tướng giặc. Thấy các chốt trên bộ khó chống giữ được lâu, Trần Hưng Đạo cho quân rút xuống thuyền, xuôi theo sông Hồng. Vua Trần Nhân Tông đem binh thuyền đến cửa sông Đuống để trợ chiến. Sau đó, để bảo toàn lực lượng, vua tôi cùng nhau rút quân về Thăng Long. Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông lần lượt sai sứ giả sang trại quân Nguyên để dò xét quân tình. Biết giặc còn mạnh, nhà Trần quyết định rút lui và thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" như lần thứ nhất. Để có thời gian chuẩn bị, triều đình đưa công chúa An Tư sang trại Thoát Hoan. Trong khi đó, Trần Hưng Đạo hộ tống hai vua xuống thuyền, rút lui về Thiên Trường (Nam Định), đất phát tích của nhà Trần. Đến khi Thoát Hoan tiến quân vào Thăng Long, đâu đâu cũng chỉ là cảnh "vườn không nhà trống", quân Trần đã rút lui an toàn. Tức giận, Thoát Hoan cho quân tức tốc đuổi theo. Đến bãi Mạn Trò, quân của Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng xông ra đánh chặn quân Nguyên, cầm chân chúng ở đây bảy ngày cho triều đình rút lui an toàn. Do lực lượng ít, Trần Bình Trọng không may sa vào tay giặc. Thoát Hoan chiêu dụ ông đầu hàng, nhưng ông nói: "Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc!". Thoát Hoan sai quân chém đầu ông. Trong khi đó, triều đình đã rút lui an toàn về Thiên Trường. Thoát Hoan không đuổi kịp, rút quân về Thăng Long, cho quân nghỉ ngơi dưỡng sức, chờ cơ hội khác.
Từ đầu cuộc chiến đến nay, quân Trần vừa đánh vừa rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ phản công. Hoặc có người hỏi: Nếu biết quân Nguyên đông và mạnh như thế thì cần gì phải đánh, ngay từ đầu phải rút lui ngay mới đúng? Xin thưa rằng: Đó là mưu lược của Trần Hưng Đạo. Bởi vì, từ cuộc kháng chiến lần thứ nhất đến nay là 27 năm, quân và dân ta đã sống thái bình lâu năm, không quen việc chinh chiến. Vì thế, đánh cầm chân địch là để kiềm chế, tiêu hao và nghi binh dụ địch tiến sâu vào lãnh thổ nước ta (vì càng vào sâu thì chúng càng bị động về khí hậu, địa hình, lực lượng và lương thực), đồng thời tập cho quân ta quen dần với trận mạc, có thể dùng cho việc phản công sau này. Điều đó càng thể hiện ý chí và quyết tâm đánh giặc đến cùng của Trần Hưng Đạo. Trước đây, khi quân ta phải lui về Vạn Kiếp, vua Trần Nhân Tông đến gặp Trần Hưng Đạo và hỏi: "Thế giặc mạnh quá, hay là trẫm đầu hàng để cứu dân thoát cảnh chiến tranh?". Trần Hưng Đạo khẳng khái tâu rằng: "Xin bệ hạ hãy chém đầu thần trước đã rồi hãy hàng". Yên lòng trước sự trung thành và quả cảm của người chú họ, cũng là vị tướng tài ba, vua tôi cùng nhau bàn thế trận và chỉnh đốn quân lực.
Lúc bấy giờ, cánh quân Nguyên từ Vân Nam tiến vào nước ta theo hướng Bạch Hạc sông Thao. Trần Nhật Duật được giao nhiệm vụ chặn giặc ở hướng này. Trước thế giặc đang mạnh, ông cho quân rút lui về hợp với đại quân của Trần Hưng Đạo ở Thiên Trường. Trên đường rút lui, đoàn thuyền của Trần Nhật Duật thấy quân Nguyên đuổi theo trên bờ, nhưng chúng lại đi từ từ. Trần Nhật Duật nhận định: "Nếu muốn đuổi theo, chúng phải chạy nhanh, đằng này chúng lại đi từ từ, ắt là có giặc đang ở phía trước đón đầu chúng ta". Trần Nhật Duật cho quân thám sát, quả nhiên ở phía trước có thuyền của quân Nguyên đông như châu chấu đang ào ào tiến tới, định phối hợp với quân Nguyên ở trên bờ để vây bắt đạo quân của Trần Nhật Duật. Ngay lập tức, Trần Nhật Duật cho quân tấp vào bờ, rút lui theo đường núi. Lúc này, quân Nguyên ở trên bờ mới tăng tốc độ nhưng đã muộn, quân của Trần Nhật Duật đã rút lui an toàn. Về sau, cánh quân này đã hợp với đại quân của Trần Hưng Đạo ở Thiên Trường, chờ cơ hội phản công. Như vậy, Trần Nhật Duật quả là một vị tướng có tài thao lược. Nhờ sự sáng suốt của ông mà quân lính mới thoát vòng nguy hiểm. Ông là một trong bốn vị tướng trụ cột của nhà Trần, tài năng ở tầm chiến lược: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư.
Sau một thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức, Thoát Hoan quyết định đem quân tấn công vào Thiên Trường, phối hợp với quân của Toa Đô từ phía Nam đánh lên. Trần Quang Khải được lệnh đem quân đi đánh đạo quân của Toa Đô, nhưng không thành công, phải rút lui. Tình thế đó buộc hai vua và các tướng phải bàn định việc rút lui khỏi Thiên Trường, thoát khỏi gọng kìm giặc đã giương sẵn. Đây là việc hết sức khó khăn vì phải làm sao để vừa bảo vệ được hai vua và triều đình vừa đưa được đại quân ra nơi an toàn nhưng lại phải hết sức bí mật nếu không sẽ khó tránh khỏi tổn thất. Cuối cùng, nhà vua chấp nhận kế hoạch táo bạo và tài tình do Trần Hưng Đạo vạch ra: Đoàn thuyền đi theo cửa Ba Lạt (Nam Định) ra biển, rồi ngược lên phía Bắc, len lỏi qua những vùng nước đầy đá ngầm đến cửa biển Quảng Yên. Sau đó, một cánh lên bộ, tản vào vùng rừng núi Đông Triều - Yên Tử, căn cứ vùng Đông Bắc của Trần Hưng Đạo, để khi cần có thể đánh bật trở lại, phối hợp với các cánh khác. Một cánh khác làm nghi binh, đem thuyền ngự của vua đi ngược lên phía Bắc để đánh lạc hướng quân Nguyên. Trong khi đó, Trần Hưng Đạo hộ tống hai vua xuống thuyền nhỏ, quay lại cửa Ba Lạt và xuôi gió thẳng về Thanh Hóa. Như vậy, Trần Hưng Đạo quả là vị tướng tài ba, biết lấy sự phân tán và tụ hợp để ứng biến. Ông phân tán quân chủ lực để di chuyển nhanh, cơ động, giặc không bắt được, đồng thời đã bố trí sẵn đội hình phản công sau này khi thời cơ đến. Khi rút lui thì phân tán, lúc phản công thì phối hợp với nhau.
Khi hai đạo quân của Thoát Hoan và Toa Đô gặp nhau ở Thiên Trường thì đã không thấy vua tôi và quân đội nhà Trần ở đâu cả. Thoát Hoan sai Toa Đô và Ô Mã Nhi lập tức đem binh thuyền đuổi theo nhưng đuổi mãi, đuổi mãi cũng không bắt được. Quá mệt mỏi và chán nản, Thoát Hoan rút đại quân về Thăng Long, lập ra đội hình phòng ngự trên sông Hồng: cứ 30 dặm lập một trạm quân, mỗi trạm 300 lính; cứ 60 dặm lập một trạm ngựa để liên lạc với nhau. Còn Toa Đô và Ô Mã Nhi thì đóng quân ở Trường Yên (Ninh Bình). Như vậy, Trần Hưng Đạo quả là vị tướng tài ba, liên tục chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng, dùng cho việc phản công sau này, đồng thời buộc địch phải bị động đối phó, bị động truy kích, bị động phòng ngự, từng bước làm cho chúng mệt mỏi và chán nản, luôn bị động về chiến lược, tạo tiền đề, thời cơ và thế lực để quân ta phản công, đúng như Tôn Tử từng nói: "Địch tuy chúng, khả sử vô đấu" và "Binh vô thường thế, thủy vô thường hình" (chương thứ sáu: Hư thực).
Sau một thời gian, Thoát Hoan đã biết triều đình nhà Trần đang ở Thanh Hóa, nên ra lệnh cho Toa Đô và Ô Mã Nhi đem quân truy bắt, nhưng chúng đã quá mệt mỏi, nên đóng quân lại ở Bắc Thanh Hóa, chờ động tĩnh.
Lúc này, quân Nguyên càng lúc càng bị động về chiến lược như sau:
+ Về khí hậu (yếu tố Thiên): Ta đã khéo kéo dài chiến tranh đến mùa hè làm cho quân Nguyên vốn quen sống ở xứ lạnh bây giờ không thể thích nghi được nên sinh ra bệnh tật, khó ở.
+ Về địa hình (yếu tố Địa): Rút kinh nghiệm lần trước, lần này ta không dàn trận đánh nhau ở đồng bằng mà tận dụng địa hình rừng núi, sông ngòi hiểm trở để tiêu hao địch, và ở địa hình này thì quân Nguyên không thể phát huy tối đa sở trường và sức mạnh của kỵ binh được.
+ Về lực lượng (yếu tố Nhân): Ta liên tục đánh tiêu hao địch và rút lui chiến lược để chúng mệt mỏi và chán nản, bị động đối phó với ta, nghĩa là phải đánh theo cách đánh của ta, liên tục bị tập kích: trên bờ thì bị tập kích bằng cung tên bởi những toán quân nhỏ, lẻ, thoắt ẩn thoắt hiện; dưới thuyền thì bị quân ta đục thuyền chìm nghỉm. Tinh thần của chúng ngày càng sa sút, mất ý chí chiến đấu.
+ Về lương thực (yếu tố Lương): Số lương thực mang ở trong nước theo đã cạn, mà số lương thực cướp được ở nước ta thì không đáng kể (vì ta thực hiện triệt để kế sách "vườn không nhà trống" để bỏ đói quân địch).
Trong khi đó, quân ta bảo toàn được lực lượng. Nhận thấy thời cơ đã đến, Trần Hưng Đạo quyết định phản công. Để chia cắt quân Nguyên ra làm hai: một đạo quân của Thoát Hoan ở Thăng Long, một đạo quân của Toa Đô và Ô Mã Nhi ở Bắc Thanh Hóa, Trần Hưng Đạo nhận thấy cần đánh sập tuyến phòng ngự của chúng trên sông Hồng:
+ Trần Hưng Đạo đem quân vòng qua quân của Toa Đô và Ô Mã Nhi ở Bắc Thanh Hóa, tấn công vào đồn A Lỗ, một chốt tiền tiêu trong hệ thống phòng ngự của chúng, đúng như Tôn Tử từng nói: "dĩ vu vi trực", nghĩa là "lấy cong làm thẳng" (chương thứ bảy: Quân tranh). Đến đây, ta có thể thấy: nét nổi bật trong nghệ thuật quân sự của Trần Hưng Đạo từ đầu cuộc kháng chiến lần thứ hai đến lúc này và cả lần thứ ba cũng thế, đó chính là rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng và phản công khi thời cơ đến, điều đó đã làm rõ nghĩa của "dĩ vu vi trực" và chứng minh học thuyết lý luận quân sự của Tôn Tử là hoàn toàn chính xác cả về thời gian và không gian, về chiến lược lẫn chiến thuật.
+ Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem quân thủy bộ tấn công vào Tây Kết, sau đó hợp với quân của Trần Nhật Duật tấn công vào Hàm Tử, rồi tiếp tục hợp với quân của Trần Quang Khải tấn công vào Chương Dương. Đây là lối đánh liên hoàn theo cách "dĩ đoản binh chế trường trận".
+ Hai vua và các tướng tấn công đồng loạt vào các trạm quân của giặc trên tuyến phòng ngự ở sông Hồng.
Như vậy, kế sách tài tình của Trần Hưng Đạo chính là nghệ thuật "dĩ đoản binh chế trường trận" kết hợp với lối đánh liên hoàn để chia cắt và cô lập hai đạo quân Nguyên.
Trong hai đạo quân Nguyên, Trần Hưng Đạo nhận thấy đạo quân của Thoát Hoan ở Thăng Long là mạnh hơn cả, vì đây là đạo quân chủ lực, và ở cách xa đạo quân thứ yếu của Toa Đô và Ô Mã Nhi, nhất thời không thể tiếp ứng cho nhau được, nên chủ trương đánh Thoát Hoan trước. Vì thế, sau chiến thắng ở Chương Dương, Trần Quang Khải đem quân tiến về bao vây quân của Thoát Hoan ở Thăng Long. Sợ giặc ở vào thế "cùng tắc biến", Trần Hưng Đạo chủ trương chừa một lối thoát cho quân địch, vì lúc đó giặc chỉ lo chạy, không còn tinh thần và ý chí chiến đấu nữa, còn đại quân của Trần Hưng Đạo thì đuổi đánh phía sau. Biết rõ quân giặc thua tất sẽ theo đường cũ rút về nước, Trần Hưng Đạo đã cho các tướng đem quân mai phục ở những nơi hiểm yếu trên suốt con đường rút lui của chúng từ Thăng Long đến biên giới để đánh tiêu hao lực lượng của chúng. Như vậy, Trần Hưng Đạo đã vận dụng nghệ thuật "vây quân địch phải chừa lối thoát" kết hợp với "truy kích không buông tha" theo binh pháp Tôn Tử, đồng thời kết hợp với nghệ thuật "dĩ đoản binh chế trường trận" theo cách mai phục đón đầu dựa vào dự đoán về đường rút lui của địch. Trần Hưng Đạo quả là một thiên tài quân sự, mưu cao mẹo giỏi, không những khéo rút lui chiến lược mà còn giỏi phản công chiến lược, giỏi phán đoán tình huống của địch, giỏi điều binh khiển tướng, giỏi dàn quân đánh trận.
Quân của Thoát Hoan chạy đến sông Cầu thì gặp quân mai phục của Trần Quốc Toản. Quân Nguyên thiệt hại nặng nề. Trần Quốc Toản đã anh dũng hy sinh nhưng quân Nguyên chỉ lo tháo chạy. Đến sông Sách (gần Vạn Kiếp), chúng gặp quân mai phục của Phạm Ngũ Lão (con rể của Trần Hưng Đạo) xông ra đánh, còn đại quân của Trần Hưng Đạo thì truy kích phía sau. Chúng bị dồn ép xuống sông chết đuối vô số. Tàn quân Nguyên tiếp tục tháo chạy. Trên đường đi, chúng liên tục rơi vào ổ mai phục của quân ta, chết nhiều vô số kể. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng, sai quân khiêng về nước. Đạo quân của Thoát Hoan bị tiêu diệt hoàn toàn.
Trong khi đó, Toa Đô và Ô Mã Nhi chưa biết Thoát Hoan đã bại trận nên đã đem quân tiến về Thăng Long định hội quân với Thoát Hoan. Đến Hàm Tử, chúng lọt vào ổ mai phục của quân ta. Toa Đô bị chém chết tại trận, còn Ô Mã Nhi may mắn thoát thân về nước.
Cuộc kháng chiến thành công. Như vậy, nhờ vua tôi đoàn kết, quân dân một lòng, nước Đại Việt một lần nữa đánh đuổi được kẻ thù hung hãn của thế kỷ.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), Trần Hưng Đạo là Tổng chỉ huy toàn quân đội, đã khéo rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng, và giỏi phản công chiến lược khi thời cơ đến. Bằng những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc kháng chiến lần thứ nhất và thiên tài quân sự của mình, ông đã giỏi phán đoán tình huống của địch, giỏi tùy cơ ứng biến, giỏi điều binh khiển tướng, giỏi dàn quân đánh trận nên đã đánh tan hơn nửa triệu quân địch (hơn 50 vạn quân Nguyên Mông), đánh cho chúng không còn manh giáp, đánh cho chúng phải cút khỏi nước ta, đem lại thái bình cho đất nước, tạo nên tiền đề, khí thế và thế lực cho quân đội nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông ở lần kháng chiến tiếp theo.
3. Chiến thắng giặc Nguyên Mông lần thứ ba (1288):
Sau hai lần thất bại, nhà Nguyên vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta. Hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vẫn giao cho Thoát Hoan làm tướng thống lĩnh toàn quân, huy động mấy chục vạn quân sang xâm lược nước ta lần thứ ba. Hướng tiến quân trên bộ lần này cũng không có gì khác trước, nhưng nhà Nguyên còn lập thêm một đội thủy quân đông đảo do Ô Mã Nhi chỉ huy, vì biết thế mạnh của quân ta là thủy chiến. Còn một điều khiến Hốt Tất Liệt lo nghĩ: Với số quân khổng lồ viễn chinh như vậy thì cũng cần phải có số lương thực và dân phu vận chuyển to lớn, vậy thì số lương thực cũng vừa đủ để nuôi phu mà thôi, đó là chưa kể quân ta thường thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" khiến cho quân Nguyên không cướp được lương thực để ăn. Sau nhiều lần bàn đi tính lại, Hốt Tất Liệt quyết định: Cho đạo thủy quân hùng hậu của Ô Mã Nhi đi trước mở đường, còn lương thực thì dùng thuyền chở theo sau do bọn cướp biển của Trương Văn Hổ áp tải. Hắn hy vọng những tên cướp biển hung tợn và đi lại thành thạo trên vùng biển, cùng với lực lượng thủy quân của Ô Mã Nhi sẽ bảo vệ được lương thực an toàn.
Tin tức về việc động binh của giặc báo về triều, vua Trần Nhân Tông hỏi: "Thế giặc năm nay ra sao?". Trần Hưng Đạo cân nhắc cẩn thận rồi trả lời: "Lần trước, nước ta do sống thái bình lâu năm, dân chưa quen việc chinh chiến. Cho nên, khi quân Nguyên sang xâm lấn, ta gặp nhiều lúng túng, hoặc có người đầu hàng trốn tránh. Nay chúng lại sang thì quân ta đã quen việc đánh dẹp, còn chúng thì phải đi xa, và đã từng bị thất bại, không có lòng chiến đấu nữa, cứ ý thần xem thì tất đánh tan được”. Như vậy, Trần Hưng Đạo đã rất am hiểu binh pháp Tôn Tử: "Thắng binh tiên thắng, nhi hậu cầu chiến; bại binh tiên chiến, nhi hậu cầu thắng", nghĩa là: binh thắng là binh biết trước chắc thắng rồi mới mong được đánh với địch; binh bại là binh trước đã đánh rồi sau mới mong được thắng (chương thứ tư: Quân hình). Lúc này, có người khuyên vua nên tuyển thêm nhiều quân để chống giặc, Trần Hưng Đạo nói: "Quân lính cốt tinh nhuệ chứ không cần nhiều. Dù có trăm vạn quân mà không giỏi thì cũng bị thua mà thôi". Trần Hưng Đạo đã rất tinh thông binh pháp: "Binh quý hồ tinh, bất quý hồ đa", "Binh đa, tướng lụy", "Địch tuy chúng, khả sử vô đấu".
Cuối năm 1287, quân Nguyên ồ ạt tiến qua biên giới xâm lược nước ta lần thứ ba. Trần Hưng Đạo bố trí các tướng đem quân trấn giữ các nơi, đại thể cũng giống như lần trước:
+ Trần Hưng Đạo đem đại quân đóng ở Nội Bàng (Lạng Sơn).
+ Trần Nhật Duật đem quân đánh chặn giặc ở hướng Bạch Hạc sông Thao.
+ Trần Khánh Dư đem quân trấn giữ Vân Đồn.
+ Trần Quang Khải lo mặt phía Nam, hộ tống hai vua và triều đình rút lui khi cần thiết.
+ ...
Rút kinh nghiệm lần trước, lần này Trần Hưng Đạo cho quân đánh chặn giặc ở một số nơi để kiềm chế, tiêu hao, nghi binh dụ địch rồi rút nhanh để bảo toàn lực lượng. Ở hướng Vân Đồn, do đạo thủy quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đông và mạnh, nên quân của Trần Khánh Dư chống không nổi, để cho giặc vượt qua. Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông sai quan trung sứ đến bắt tội. Trần Khánh Dư nói: "Chiếu theo phép công, tôi xin chịu tội. Nhưng xin quan trung sứ cho hoãn lại vài ba ngày để lập công chuộc tội, rồi sau đó về chịu búa rìu cũng chưa muộn". Vài hôm sau, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tiến lên. Thuyền tải lương nên nặng nề và chậm chạp, khó xoay trở nên bị quân của Trần Khánh Dư đánh tan, cướp được vô số lương thực. Trần Khánh Dư không những đã lập công chuộc tội mà còn góp phần quyết định vào chiến thắng chung của dân tộc, của đất nước và của quân đội nhà Trần. Về phần Ô Mã Nhi, sau khi thắng được một trận thì rất hí hửng, bỏ mặc thuyền lương chậm chạp ở phía sau để tiến nhanh về Vạn Kiếp, hội quân với Thoát Hoan. Sau đó, chúng ồ ạt tiến quân về Thăng Long, nhưng cũng giống như hai lần trước, kinh thành Thăng Long đâu đâu cũng chỉ là cảnh "vườn không nhà trống", vì triều đình đã nhanh chóng rút lui an toàn và tỏa ra các căn cứ ở vùng ven biển Hải Đông. Tức giận, Ô Mã Nhi cho quân đập phá lăng mộ vua Trần Thái Tông, còn Thoát Hoan ra lệnh cho quân tướng truy bắt triều đình nhà Trần, nhưng tìm mãi mà cũng chẳng thấy bóng dáng và tăm hơi đâu cả. Lúc này, quân Nguyên luôn bị quân ta tập kích nên cũng bị tiêu hao một phần sinh lực. Do không cướp được lương thực, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đi tìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Đến cửa Đại Bàng (Văn Úc, Hải Phòng), chúng bị quân ta tập kích và bị tiêu hao một phần lực lượng. Cuối cùng, Ô Mã Nhi đã gặp lại đám quân áp tải lương thực (do Thượng hoàng Trần Thánh Tông thả ra để báo tin cho chúng). Biết đoàn thuyền lương đã bị đánh, Ô Mã Nhi lập tức kéo quân về Thăng Long báo tin cho Thoát Hoan. Lúc này, Hưng Ninh Vương Trần Tung (anh của Trần Hưng Đạo) cho sứ giả đến trại quân Nguyên để xin hàng nhưng cứ hẹn mãi mà chẳng thấy đến, khiến quân Nguyên cứ thấp thỏm, lo âu, mất cả nhuệ khí. Đó chính là phép trị tâm theo binh pháp Tôn Tử (chương thứ bảy: Quân tranh). Tình thế của quân Nguyên lần này có chiều hướng bị động về chiến lược như lần trước (về khí hậu, địa hình, lực lượng và đặc biệt là lương thực). Không muốn bị sa lầy như lần trước, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước, chờ cơ hội khác sẽ trả thù. Thoát Hoan chỉ huy đại quân theo đường cũ rút về nước bằng đường bộ, còn Ô Mã Nhi rút lui bằng đường thủy. Biết thế mạnh của quân ta là thủy chiến và sợ thủy quân của Ô Mã Nhi bị tập kích, Thoát Hoan sai Trình Bằng Phi đem kỵ binh đi dọc theo bờ sông để hộ tống. Trong khi đó, quân ta bảo toàn được lực lượng. Nhận thấy thời cơ đã đến, Trần Hưng Đạo quyết định phản công. Như vậy, nghệ thuật quân sự tiêu biểu của Trần Hưng Đạo trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ hai và lần thứ ba là: rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng và phản công chiến lược khi thời cơ đến. Điều đó rất đúng với lý luận quân sự của Tôn Tử: “tỵ kỳ nhuệ khí, kích kỳ nọa quy”, nghĩa là: tránh cái khí sắc sảo, mạnh mẽ, đánh cái khí thoái nhượng, mong về. Đó chính là phép trị khí theo binh pháp Tôn Tử (chương thứ bảy: Quân tranh). Bên cạnh đó, quân ta luôn mai phục sẵn để chờ đón đánh quân địch từ xa đến (dĩ cận đãi viễn), luôn đợi cho quân địch mệt mỏi, chán nản, mất tinh thần chiến đấu rồi mới phản công đánh địch (dĩ dật đãi lao), luôn biết cách bảo toàn lực lượng và dưỡng sức chờ thời cơ, ăn uống đầy đủ, đồng thời bỏ đói quân địch (thực hiện “vườn không nhà trống” và đánh tan đoàn thuyền lương của địch) rồi mới đánh trả (dĩ bảo đãi cơ). Đó chính là phép trị lực theo binh pháp Tôn Tử (chương thứ bảy: Quân tranh). Trần Hưng Đạo không chủ trương tấn công và tiêu diệt lực lượng lớn của quân địch mà luôn đánh tiêu hao chúng theo thế trận liên hoàn, dùng nghệ thuật “dĩ đoản binh chế trường trận” để từng bước làm tan rã lực lượng của chúng. Đó chính là phép trị biến theo binh pháp Tôn Tử (chương thứ bảy: Quân tranh). Trước kia, khi quân Mông Cổ tấn công áp đảo và chiếm hết toàn bộ Trung Quốc, người Trung Quốc từng nhận định: chiến pháp của quân Mông Cổ đã làm đảo lộn toàn bộ chiến pháp kinh điển của người Trung Quốc, và binh pháp của Trung Quốc đã không thể đánh bại được quân Mông Cổ. Thế nhưng, lịch sử kháng chiến chống giặc Nguyên Mông của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng: Bộ chỉ huy nhà Trần mà nổi bật nhất là Trần Hưng Đạo đã vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo binh pháp Tôn Tử (bộ binh thư kinh điển của Trung Quốc, cuốn sách gối đầu của các bậc danh tướng) vào cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước, ba lần đánh bại quân Nguyên Mông. Như vậy, Trần Hưng Đạo đúng là một thiên tài quân sự. Đối với cuộc phản công trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, Trần Hưng Đạo đã vạch ra kế hoạch tài tình như sau: Trước hết, Trần Hưng Đạo sai quân đào hầm, phá cầu, liên tục tập kích làm cho kỵ binh của Trình Bằng Phi không đi được, buộc phải quay lại nhập vào đoàn quân của Thoát Hoan rút lui bằng đường bộ, bỏ lại đoàn thủy quân của Ô Mã Nhi rút lui một mình, không có quân hộ tống. Vận dụng cách đánh quân Nam Hán của Ngô Quyền trước đây (năm 938), Trần Hưng Đạo quyết định dùng trận địa cọc để chôn vùi quân giặc dưới lớp sông sâu. Để có thời gian chuẩn bị, Trần Hưng Đạo cho quân không ngừng tập kích để khống chế tốc độ hành quân của Ô Mã Nhi, còn Trần Hưng Đạo thì lo chuẩn bị trận địa cọc. Khác với thời Ngô Quyền, quân Nam Hán từ biển đi vào nên ta có thể chủ động trong việc mai phục. Còn lần này, quân Nguyên từ sông ra biển, mà khúc sông từ Lục Đầu đến ngã ba sông Chanh có nhiều nhánh đều đổ ra biển được. Bài toán chiến lược đặt ra là: Biết đóng cọc ở đâu để nắm chắc được quy luật ngày giờ nước lên, nước xuống và thuận lợi để mai phục quân thủy bộ? Làm thế nào để quân Nguyên phải đi theo thế trận mà ta đã dàn sẵn? Hỏi ai? Và ai biết? Trần Hưng Đạo đã đến tận nơi và được bà hàng nước bên sông chỉ cho biết ngày giờ nước lên, nước xuống một cách tường tận. Trần Hưng Đạo nhận định: Ngã ba sông Chanh là nơi gần cửa sông nên chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều, và địa thế ở đây thuận lợi cho quân thủy bộ mai phục. Vì thế, ông quyết định cho quân đóng cọc xuống khu vực này. Những chiếc cọc được đóng sao cho khi thủy triều lên thì bãi cọc bị che lấp, còn khi thủy triều xuống thì cản trở thuyền bè qua lại. Người ta chọn gỗ lim, táu vì gỗ của những cây này chắc và tốt, sau khi đóng xong còn phải kiểm tra độ vững chắc của từng chiếc cọc. Ngã ba sông Chanh - một chi lưu của sông Bạch Đằng - sẽ là mồ chôn quân xâm lược. Trần Hưng Đạo đã kết hợp trận địa cọc ngầm và quân thủy bộ mai phục ở trong các nhánh sông và trên hai bờ sông để tiêu diệt thủy quân của giặc. Ông còn cho quân chuẩn bị nhiều chất đốt giấu trong những luồng lạch gần đó để đánh hỏa công. Còn ở các nhánh sông khác, ông cho quân đóng giữ và nghi binh để giặc không dám qua, mà phải đi theo thế trận ông đã dàn sẵn. Mọi việc được tiến hành khẩn trương nhưng không kém phần chu đáo, cẩn trọng.
Sau khi chuẩn bị xong xuôi, các cánh quân được lệnh tập kích đoàn thuyền của Ô Mã Nhi lập tức rút lui để Ô Mã Nhi tiếp tục hành quân. Đến Chúc Động, chúng bị quân Trần ở đây đổ ra đánh. Quân ta bị mất 20 chiến thuyền, nhưng đã thành công trong việc đánh ép thủy quân của Ô Mã Nhi phải đi đến ngã ba sông Chanh, nơi có trận địa cọc kinh hồn của Trần Hưng Đạo đang đón đợi bọn chúng.
Sáng sớm ngày 08/03 âm lịch năm Mậu Tý (tức là ngày 09/04/1288), đoàn thuyền của Ô Mã Nhi đến sông Bạch Đằng. Lúc này, hắn thấy yên tâm vì chẳng còn bao lâu nữa là ra đến biển để về nước, và hắn cũng đã bắt được một số thuyền của quân ta, khi về nước cũng có chiến lợi phẩm để lập công chuộc tội. Bỗng nhiên, một đoàn thuyền nhỏ do tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái xông ra đánh. Thấy quân ta ít, lại toàn thuyền nhỏ, Ô Mã Nhi thúc quân tiến lên đánh trả. Quân ta vừa đánh vừa lui, kéo dài thời gian đến trưa để dụ địch đuổi theo, tiến vào bãi cọc. Gần đến trưa, nước triều bắt đầu rút, quân ta rút lui thật nhanh. Ô Mã Nhi thúc quân đuổi gấp, hy vọng tiêu diệt được đạo quân của Nguyễn Khoái để lập công chuộc tội ở trước mặt Hốt Tất Liệt. Đến trưa, nước triều rút nhanh, trận địa cọc ngầm nhô lên khỏi mặt nước. Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi sa vào bãi cọc, lớp bị cọc đâm thủng, lớp bị dồn lại kẹt cứng, lớp va vào nhau vỡ toác. Quân Nguyên đang hốt hoảng thì một loạt trống lệnh vang lên dồn dập, những chiếc bè hỏa công (bè lửa) được thả từ những luồng lạch gần đó trôi len lỏi vào đội hình quân Nguyên. Lửa gặp gió thuận, thuyền giặc bốc cháy phần phật. Hai bên bờ sông và trong các nhánh sông, quân thủy bộ của ta mai phục sẵn xông ra tập kích thuyền giặc, tiếng reo hò vang dậy một góc trời. Thủy quân của Thượng hoàng và vua cũng tham gia đánh vào phía sau đội hình địch. Quân Nguyên lớp bị giết, lớp bị chết cháy, chết đuối, lớp chạy trốn lên bờ thì bị quân bộ của ta bắt sống, lớp nhảy xuống sông bị xóc vào cọc nhọn mà chết. Ngay cả hai tên tướng sừng sỏ của giặc là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp cũng bị quân ta bắt sống. Trận đánh diễn ra đến chiều tối thì kết thúc. Quân ta bắt được 400 chiến thuyền của giặc. Sáu vạn thủy quân của giặc Nguyên bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn.
Nói về tình hình của Thoát Hoan rút quân bằng đường bộ cũng không khá hơn. Biết rõ quân giặc thua tất sẽ theo đường cũ rút về nước, Trần Hưng Đạo đã cho quân mai phục suốt con đường rút quân của Thoát Hoan. Quân ta dùng cung tên tẩm thuốc độc và đào sẵn hố chông để đánh tiêu hao sinh lực địch, làm cho chúng bị thiệt hại nặng nề. Quân giặc chết như rạ. Chạy về đến biên giới, Thoát Hoan thấy quân lính bên cạnh mình chẳng còn được bao nhiêu, nên chán ngán cho giải tán tất cả.
Cuộc kháng chiến thành công. Đoàn quân chiến thắng tiến về kinh thành Thăng Long, sửa sang lại lăng mộ vua Trần Thái Tông và những nơi bị giặc tàn phá. Trần Hưng Đạo được gia thêm tước Đại Vương, chức Thượng Quốc Công, còn các tướng đều được luận công ban thưởng. Nhà vua cho đại xá thiên hạ, đúc tượng công thần. Tất cả những thư từ qua lại giữa một số đại thần và giặc Nguyên, nhà vua sai đem đốt tất cả, không truy cứu nữa. Đối với tù binh bị bắt trong trận Bạch Đằng, nhà vua cấp thuyền cho chúng về nước. Trần Hưng Đạo sai Yết Kiêu và một toán thủy quân đục thuyền của chúng, sau đó cho quân cứu vớt hết tù binh Nguyên, ngoại trừ Ô Mã Nhi để cho chết đuối, lại cấp thuyền cho chúng về nước. Sau đó, vua Trần Nhân Tông viết thư gởi Hốt Tất Liệt, nói Ô Mã Nhi không may bị rơi xuống sông, nhưng thân thể nặng nề nên đã chết chìm, còn tù binh thì thân thể nhẹ hơn nên cứu được hết và đã thả cho về nước, riêng Phàn Tiếp thì bị bệnh chết ở Thăng Long. Thoát Hoan bị truất phế ngôi thái tử vì làm mất thể diện của thiên triều và hao binh tổn tướng trong hai lần xâm lược Đại Việt. Đến lúc nhà Nguyên bị diệt vong, nước ta không bị quân Nguyên Mông xâm lược thêm một lần nào nữa cả.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba (1287 - 1288), Trần Hưng Đạo tiếp tục là Tổng chỉ huy toàn quân đội, đã kế thừa và phát huy những nghệ thuật quân sự và tinh thần quyết chiến quyết thắng quân xâm lược Nguyên Mông từ hai lần trước, đặc biệt là chiến thắng to lớn, chiến thắng oanh liệt và chiến thắng vang dội ở cuộc kháng chiến lần thứ hai, nên đã đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông ở lần thứ ba. Đặc biệt, trận quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng (1288) đã đánh tan 6 vạn thủy quân Nguyên Mông, đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nguyên. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba đã đem lại thái bình lâu dài cho đất nước vì đến khi nhà Nguyên bị diệt vong, ta không phải đánh giặc Nguyên thêm lần nào nữa, đồng thời góp phần ngăn chặn sự bành trướng của đế quốc Nguyên Mông xuống khu vực Đông Nam Á. Đó cũng là đóng góp to lớn của nhà Trần nói chung và Trần Hưng Đạo nói riêng cho thế giới vào thế kỷ 13.
Thế kỷ 13 ở nước ta là một thế kỷ anh hùng. Dù ba mươi năm, ba lần đại họa nhưng triều đại nhà Trần đã xuất hiện biết bao vị anh hùng tài giỏi góp công đánh giặc cứu nước, đánh tan và đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của giặc Nguyên Mông. Quân Nguyên Mông là đạo quân xâm lược hùng mạnh, thiện chiến và hung hãn nhất đã từng chinh phạt khắp thế giới, tung hoành vó ngựa từ Á sang Âu. Trong số các vị anh hùng đó, nổi bật hơn tất cả là tên tuổi và tài năng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn, Trần Hưng Đạo, Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương, Bình Bắc Đại Nguyên Soái, Long Công Thịnh Đức, Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương, vị anh hùng dân tộc, bậc danh tướng lừng lẫy cổ kim, là một thiên tài quân sự, một danh tướng kiệt xuất, một vị tướng tài ba lỗi lạc, một đại anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Không chỉ là vị tướng tài ba của đất nước, Trần Hưng Đạo còn được xếp vào hàng danh nhân quân sự thế giới. Hội nghị Luân Đôn (London) được tổ chức ở Anh (1984), bao gồm các nhà bác học và quân sự thế giới, dưới sự chủ trì của Hoàng gia Anh quốc, đã công bố danh sách 10 đại tướng tài ba của thế giới, trong đó có tên Trần Hưng Đạo. Nước Việt Nam chúng ta tự hào vì có được một vị anh hùng như thế. Trần Hưng Đạo là người đã có công khai sinh ra nền khoa học quân sự của nước ta, và những chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật quân sự của ông luôn luôn là những bài học sáng giá trong kho tàng nghệ thuật quân sự nước nhà. (Hết)
Bình Luận Bài Viết