Bất chấp những ngày nắng mùa hè oi bức, những đêm khuya khoắt, trời mưa, đường sá xa xôi, bệnh tật, tuổi già sức yếu vv mà lòng thành kính với Đức Phật của dòng người nối đuôi nhau, vượt lên trên mọi khó khăn, gian nan, trở ngại, nhất tâm một lòng chiêm bái xá lợi Phật trong niềm hân hoan hỷ lạc. Chứng kiến dòng người với hai tay chắp lại cung kính, vừa đi nhiễu quanh, vừa xá lạy tháp thờ xá lợi Phật. Khoảnh khắc thành kính và thiêng liêng này khiến lòng ‘tôi’ xúc động. Dường như thể, đức tin vào Phật pháp, đang soi rọi trong từng bước chân của người hành hương.
Những lời mỹ từ hoa này của những BT viên truyền hình được tóm lược (mặc dầu vụng về), là kết quả của những dòng suy nghĩ chơn thiện, được kết thành từ những gì được thấy nghe trong những ngày hành hương của đông đảo bà con trong sự thành kính với Đức Phật.
Đó là biểu pháp của Chánh Ngữ, kết quả của Chánh Tư Duy trên nền tảng của Chánh Kiến, nơi mà Pháp hành Sơ Thiền được ‘gọi tên’, được hiển bày, và nếu khéo ứng dụng, thời thiện Pháp sẽ được tăng trưởng, sung mãn.
Thế nào là sơ thiền? Tại sao phải phải thực hành sơ thiền? Sơ thiền được hiển bày và được duy trì như thế nào trong việc chiêm bái cung thỉnh, cung rước, tôn trí tháp, chiêm bái xá lợi Phật; và ứng dụng sơ thiền vào đời sống tu tập? Đó là những vấn đề mà bài chia sẻ này, tập trung triển khai trên nền tảng lời Phật dạy, được ghi lại trong Thánh Điển Pali, và hy vọng rằng nhờ sự chia sẻ này, quý Pháp hữu, với ý tư duy, hiểu biết và áp dụng để thiện pháp sung mãn, hướng đến giải thoát, niết bàn.
1. Thế nào là sơ thiền?
Trong các kinh Nikàya, Đức Phật nói về sơ thiền một cách cô đọng, ngắn gọn, như đoạn trích từ Kinh Trung Bộ Majjhima Nikàya số 52 Kinh Bát Thành sau đây:
Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ…
Để có trạng thái hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp; thời thiện pháp phải được khéo khởi sự, được huân tập cho đến sung mãn. Muốn vậy phải nhất tâm hướng về một đề mục, một tướng tịnh tín, nhờ đó mà thiện pháp phát sinh, trưởng dưỡng, chẳng hạn: tâm hướng về Đức Phật, tức là Tầm. Tứ là tư duy về thiện liên quan đến đề mục, đối tượng đó, chẳng hạn: Tri ân công đức vô biên của Đức Phật.
Để tâm không bị sở duyên theo ngoại cảnh, không nhiệt não, không bị phân tán hướng ngoại, hay tâm không bị thụ động, cần phải hướng tâm (Tầm) đến một tướng tịnh tín, như Đức Phật dạy trong Tương Ưng Niệm Xứ (a), Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya. Chương III như sau:
Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo sống, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán thân trên thân, hoặc thân sở duyên (kàyàrammano) khởi lên, hoặc thân nhiệt não (kàyasmin parilàho), hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán hướng ngoại (bahiddha va cittam vikkhipati); do vậy, này Ananda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín (pasàdaniyenimitta). Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan (pàmujjam: Thắng hỷ) sanh…
Như vậy, việc nhất tâm hướng về xá lợi Phật trong niềm thành kính vô biên qua việc cung rước, cung tiễn, chiêm bái vv, là một sự hướng tâm đến một tướng tịnh tín kỳ đặc, như lời dạy của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, như được đề cập ở trên. Nhờ vậy, thiện pháp được phát sinh trong những khoảng khắc thiêng liêng kỳ diệu ấy. Thiện Pháp sẽ tiếp tục được tăng trưởng, khi hành giả khéo tri ân công đức vô biên của Ngài (tức là Tứ: nghĩ về những ân đức của Thế Tôn một cách sâu sắc với lòng biết ơn vô hạn, và lòng thương kính của mình đối với Ngài).
2. Tại sao phải thực hành sơ thiền?
2.1 Ly dục, ly ác pháp (ly bất thiện pháp): thiện pháp được khởi sự, được tích tập cho đến sung mãn (như đã được minh thị ở trên)
2.2 Khi thiện pháp đi đến sung mãn, chứng đạt sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh, thời hành giả không còn bị các dục chi phối, như lời xác quyết của Thế Tôn, được ghi lại trong Thánh Điển Pali (được kết tập từ chư Thánh A-la-hán, lậu hoặc đã tận), Trung Bộ Kinh Majjhima Nikàya. 14 Tiểu Kinh Khổ Uẩn như sau:
“Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh Đẳng Chánh Giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: ‘Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn,’ dầu Ta có thấy với như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: ‘Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn,’ và Ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối.”
(Trung Bộ Kinh Majjhima Nikàya. 14. Tiểu Kinh Khổ Uẩn. https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung14.htm)
2.3 Khi chứng sơ thiền, bốn chúng đệ tử của Như Lai (thấu rõ Tứ Thánh Đế bằng trí tuệ), thời sẽ chứng tam quả Bất Lai, A-na-hàm, và nếu khéo xả ly, thời chứng tứ quả A-la-hán (bậc tuệ giải thoát – A-la-hán không có thần thông), hữu kiết sử đã được đoạn tận, gánh nặng đã được đặt xuống, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh giải thoát, niết bàn như lời dạy của bậc Đạo Sư, Thầy của trời người trong Trung Bộ Kinh Majjhima Nikàya. 52 Kinh Bát Thành, như sau:
Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: "Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử (chứng tam quả Bất Lai A-na-hàm), được hóa sanh, nhập Niết bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố, nên Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.
3. Sơ thiền được hiển bày và được duy trì như thế nào trong việc chiêm bái cung thỉnh, cung rước, tôn trí tháp, và chiêm bái xá lợi Phật; và ứng dụng sơ thiền vào đời sống tu tập?
Tùy theo mức độ chú tâm, hướng tâm đến Như Lai của người hành hương, hoặc chú tâm đến đề mục thiện khác, thời trạng thái sơ thiền (những suy nghĩ chơn thiện về Đức Phật, về những điều thiêng liêng, được thấy nghe trong không khí chiêm bái, cung thỉnh vv trang nghiêm ấy), sẽ được duy trì tương ưng, và như vậy, thiện pháp (ly dục, ly bất thiện pháp) theo đó sẽ được hiển bày, duy trì, tích tập...
3.1 Với một lòng thành kính chiêm bái xá lợi Phật trong niềm tri ân ân đức bao la của Đức Phật - Tầm: nhất tâm hướng về xá lợi Phật, Tứ: Tri ân- nghĩ về những đức hạnh của ngài trong niềm biết ơn sâu sắc; Như một nội dung trong bài viết tri ân ân đức của Đức Phật của tác giả Tâm Tịnh, như dưới đây, là một thí dụ của việc ứng dụng sơ thiền; có tầm có tứ ly dục, ly bất thiện pháp
Với năm vóc sát đất, con xin thành kính đảng lễ xá lợi Phật với tâm trí hân hoan ghi nhớ ân đức như biển cả bao la của Thế Tôn, khi ngài là một đạo sỹ Sumedha (đã chứng 8 thiền và 5 thắng trí (ngũ thông), có khả năng chứng đạo A La Hán, nhưng không vì an vui cho bản thân trong cảnh giới niết bàn, không còn buộc ràng, phiền não khổ đau, mà thay vào đó, ngài vẫn kiên tâm với Đại Nguyện Thuở xưa (đã được thực hành hơn 16 A tăng kỳ kiếp), trở thành một vị Bồ Tát, lần đầu tiên được Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) thọ ký, sẽ trở thành một vị Phật toàn giác Gotama (Thích Ca Mâu Ni Phật) sau 4 A tăng kỳ kiếp và 100 ngàn đại kiếp. Thay vì tịch lặng an vui trong cảnh giới niết bàn thanh văn, Ngài hoan hỷ chấp nhận trải vô lượng kiếp tái sinh luân hồi nữa để tu bồ tát hạnh, tích tập thập ba-la-mật tròn đầy, từ bi và trí tuê viễn mãn vì lợi ích và hạnh phúc cho chúng lục đạo hữu tình trong tam giới. (Điển tích này ghi lại trong Thánh Điển Pali, Chánh Giác Tông Buddhavamsa, Tiểu Bộ Kinh Khuddaka Nikàya. Phần 2. 28 vị Phật quá khứ).
“Kính lễ xá lợi Phật – Thành kính tri ân ân đức của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: https://quangduc.com/a78203/kinh-le-xa-loi-phat)
3.2 Chánh ngữ: Lời nói chơn thiện, mỹ từ hoa trên cơ sở của suy nghĩ chơn chánh (Chánh Tư Duy: Chánh Tư Duy về vô sân = lòng từ, Chánh Tư Duy về ly dục, và Chánh Tư Duy về bất hại) từ sự kiện trọng đại linh thiêng và trong niềm kính thương của những người hành hương đối với Đức Phật…
Thật vậy, những lời nói mỹ từ hoa của các BT viên truyền hình, khi chứng kiến những khoảnh khắc thiêng liêng của dòng người thành kính tham gia sự kiện trọng đại hiếm hoi, nghìn năm khó gặp; và nghe những lời từ tâm đạo của những người đi chiêm bái, khiến cho những người làm truyền hình này xúc động, phát ra những chánh ngôn ngữ, những lời ca tụng Đức Phật, tán thán đạo Phật: đạo từ bi và trí tuệ; đạo của tình người hòa ái (chứng kiến những thiện nhơn nhiệt tâm phục vụ hàng vạn người đến chiêm bái ); đạo của hòa bình, là đạo hiếu (khi chứng kiến những người con cõng mẹ, hay dìu dắt Mẹ già, Cha già yếu cùng thành kính đảnh lễ xá lợi Phật) vv
Chính những hình ảnh đẹp khả ái, khả hỷ, khả ý đó đập vào tâm thức, khiến cho những dòng suy nghĩ chơn thiện được kết thành và tuôn chảy thành những lời mỹ từ hoa (Chánh Ngôn Ngữ). Trong kinh Nikàya, có một nam cư sỹ hỏi Thánh Ni A-la-hán rằng: Tầm tứ thuộc về gì? Thánh Ni A-la-hán trả lời: Tầm tứ thuộc về khẩu. Vị nam cư sỹ tỏ ra không hiểu lời dạy này của Ngài, và được Thánh Ni giải thích: phải suy nghĩ trước, rồi mới nói; tức là lời nói là kết quả của tư duy, suy nghĩ.
Lời Phật dạy trong Pháp cú 376, như dưới đây cho thấy, nếu hành giả khéo nói, chơn thiện ngôn trên cơ sở của Chánh Kiến, Chánh Tư Duy: bằng tâm từ, không bằng tâm sân; tâm bất hại (không hại mình, hại người, hại cả hai); không tham dục (ly dục), thời sẽ được an lạc, và nếu kiên tâm thực hành, thiện pháp sẽ được sung mãn, chứng đạt sơ thiền, ly dục, ly bất thiện pháp, một trạng thái hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh, có tầm, có tứ; và niệm xả ly sự hỷ lạc do sơ thiền viên mãn mang lại, sẽ dứt mọi khổ đau, là bậc A-la-hán.
Giao thiệp khéo thân thiện
Cử chỉ mực đoan trang
Do vậy, hưởng vui nhiều
Sẽ dứt mọi khổ đau.
(Pháp Cú 376. Tiểu Bộ Kinh Khuddaka Nikàya. XXV. Phẩm Tỳ kheo)
Hoặc Pháp Cú 232 về việc khéo giữ lời không phẫn nộ (trên cơ sở Chánh Tư Day vô sân) để có Chánh ngữ như sau:
Giữ lời đừng phẫn nộ
Phòng lời, khéo bảo hộ,
Từ bỏ lời thô ác
Với lời nói điều lành.
(Pháp cú 232. Tiểu Bộ Kinh_Khuddaka Nikàya. XVII. Phẩm Cấu Uế)
Chiêm bái xá lợi Phật là một sự kiện trọng đại, sự kiện linh thiêng của hàng triệu Phật tử và bà con trên cả nước. Nhờ đó, thiện pháp được phát sinh, lan tỏa đến nhiều người. Khá nhiều đề mục thiện (tướng tịnh tín) để hành giả hướng tâm, nhưng xá lợi Phật là tướng tịnh tín khả hỷ, khả ý, khả ái, khả lạc nhất, thù thắng nhất, không những vì chỉ một lòng kính tín Như Lai (tâm chánh trực, tâm thanh tịnh), phát sinh chơn thiện pháp vi diệu, mà còn qua sự chiêm bái, kính lễ Ngài, một sự tri ân ân đức của Thế Tôn biểu pháp của Chánh Tư Duy & Chánh Kiến, làm xuất sinh những thiện pháp không thể nghĩ bàn; nếu khéo và kiên tâm thực hành, thời thiện pháp theo đó tăng trưởng; và thường tinh tấn như vậy cùng với hướng tâm đến những tướng tịnh tín khác trong đời sống tu tập (tụng kinh đọc pháp với một sự chú tâm; chú tâm nghe pháp, tư duy pháp vv), thời thiện pháp sẽ sung mãn, đi đến ly dục, ly bất thiện pháp, một trạng hỷ lạc do ly ác pháp sanh, chứng đạt sơ thiền có tầm, có tứ vv.
Nguyện đem công đức này
Hướng về chúng sanh khắp pháp giới
Đồng sanh cõi Cực Lạc.
Trong tâm từ,
Tâm Tịnh
09/06/2025 (06/05 Ất Tỵ)
Toowoomba, Queensland, Australia
Bình Luận Bài Viết