Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt. Ông là vị anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự thời Lý. Trong kháng chiến chống Tống lần thứ hai, ông đã nhìn thấu suốt toàn cuộc chiến tranh, nên đã đi trước quân giặc nhiều nước cờ quan trọng về chiến lược. Ngoài việc ông xin phục chức cho Thái Sư Lý Đạo Thành để tạo khối đoàn kết nội bộ và việc ông tuyển thêm quân để bổ sung vào 18 vệ cấm binh bảo vệ kinh thành Thăng Long, ông đã đi nhiều nước cờ cao để đối phó với quân thù:
Như vậy, Lý Thường Kiệt là một danh tướng kiệt xuất, một thiên tài quân sự, một vị tướng tài ba lỗi lạc, một anh hùng dân tộc vĩ đại.
Tài thao lược của Lý Thường Kiệt:
+ Trận Ung Châu: Sau khi đã tấn công vào hai thành Khâm Châu và Liêm Châu, Lý Thường Kiệt tiến quân đến thành Ung Châu theo kế hoạch. Thành Ung Châu vô cùng kiên cố, thành cao hào sâu, không dễ đánh. Lý Thường Kiệt cho quân bắc thang công thành, đào địa đạo để tấn công từ lòng đất nhưng không có kết quả. Quân Tống trên mặt thành chống trả quyết liệt để phá thang của ta, lại đào hào để "vô hiệu hóa" địa đạo của ta, nên chưa dễ tấn công thành Ung Châu. Lúc đó, quân tiếp viện của giặc Tống từ Quế Châu kéo đến để giải vây cho thành Ung Châu. Lý Thường Kiệt cho quân mai phục ở ải Côn Luân để đánh tan đạo quân ấy. Vây hãm Ung Châu hơn một tháng mà không hạ được thành, đột nhiên Lý Thường Kiệt nghĩ ra một cách. Ông lập tức sai quân chuẩn bị những bao đất nhỏ vừa sức người mang. Sau đó, cứ hai người khiêng một tấm ván che chắn tên đạn từ trên thành bắn xuống cho một người mang bao đất tiến vào đặt cạnh chân thành. Những bao đất chồng chất lên nhau tạo thành con đường cho quân ta tiến lên tấn công mặt thành. Nhờ vậy, sau 42 ngày vây hãm, thành Ung Châu đã bị hạ bằng chiến thuật "thổ công" (đánh bằng đất).
+ Trận Như Nguyệt lần thứ nhất: Khi quân bộ của giặc Tống đã đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, vì không có lương và chờ mãi cũng không thấy thủy quân đến (thủy quân của chúng đã bị thủy quân ta chặn đánh ngoài biển) mà đóng quân lâu thì không có lợi, nên chúng bắc cầu phao để vượt sông. Quân tiên phong của chúng đã chọc thủng một đoạn phòng tuyến của ta để vượt qua. Bất ngờ, quân mai phục của Lý Thường Kiệt xông ra chia cắt đội hình của chúng làm hai và vây đánh dữ dội. Quân Tống thua to, rút về cầu phao thì cầu phao đã bị quân của Lý Thường Kiệt chặt đứt từ lúc nào rồi. Nhiều tên giặc bị quân ta dồn ép xuống sông chết đuối vô số. Trận đầu tiên quân Tống thua to, còn quân ta thì chiến thắng vang dội.
+ Trận Như Nguyệt lần thứ hai: Sau thất bại lần thứ nhất, quân Tống kết bè lớn, mỗi bè chở 500 quân để vượt sông lần thứ hai. Lý Thường Kiệt đã thấy rõ sơ hở của bọn chúng: Bè nặng nên di chuyển chậm chạp, những chiếc trước đến gần sát bờ Nam thì những chiếc sau còn lênh đênh giữa dòng, và một chiếc bè bị đánh vỡ thì 500 quân rơi xuống sông cùng một lúc. Vì vậy, ông sai quân chuẩn bị sẵn gỗ đá và cung tên. Khi những chiếc bè đầu tiên đến sát bờ thì gỗ đá và cung tên cùng bắn ra. Quân Tống lớp trúng gỗ đá, lớp trúng tên bắn, chết vô số. Những chiếc bè bị đá đánh vỡ thì quân Tống sa xuống sông chết đuối hàng loạt. Cứ như thế, từng tốp bè đến trước và đến sau lần lượt bị đánh bằng cách đó. Rõ ràng là quân Tống đã tự phân tán lực lượng của mình rồi cứ lần lượt bị tiêu diệt, còn quân ta thì lấy thế chủ động, tập trung để đánh bại thế bị động, phân tán của chúng. Trận thứ hai quân Tống lại thua to, còn quân ta lại chiến thắng vang dội một lần nữa.
+ Trận Như Nguyệt lần thứ ba (vượt sông tấn công): Sau hai lần thất bại nặng nề, quân Tống đóng quân cố thủ, không dám tấn công nữa (mặc dù đóng quân là thế bất lợi của chúng vì không có lương thực). Lý Thường Kiệt quyết định cho quân vượt sông phản công. Ông đang đứng trước bài toán chiến lược quan trọng: giữa hai đạo quân của giặc (đạo quân chủ lực của nguyên soái Quách Quỳ và đạo quân thứ yếu của phó tướng Triệu Tiết) thì nên đánh tập trung vào đạo quân nào trước? Vì nếu đánh cả hai đạo quân giặc cùng một lúc thì có lợi là phân tán sự chi viện của chúng, nhưng ta lại không đủ lực lượng để tấn công, và ta cũng sẽ bị phân tán lực lượng, đó là thế bất lợi của ta. Dựa vào kết quả của lịch sử, tôi xin mạn phép đưa ra suy nghĩ của cá nhân tôi về tư duy chiến lược của Lý Thường Kiệt như sau: Do cả hai đạo quân giặc ở cùng một chiến tuyến nên khoảng cách giữa chúng không xa mấy, và đó chính là thế "ỷ giốc": thế đóng quân chia làm hai cứ điểm, hai bên cùng cứu ứng lẫn nhau. (Hẳn độc giả trung thành với bộ "Tam Quốc diễn nghĩa" sẽ không mấy ai quên được thế đóng quân này). Vì thế, ta cần phải "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu", tức là "tránh Quách Quỳ, đánh Triệu Tiết". Bởi vì, nếu đánh vào đạo quân chủ lực của Quách Quỳ (tức là đạo quân mạnh hơn) thì chưa chắc đã có thể đánh nhanh, giải quyết nhanh mà còn bị quân Triệu Tiết đánh vào sau lưng, lúc đó ta sẽ lâm vào thế "lưỡng đầu thọ địch" (cả hai mặt đều có giặc). Như vậy, ta sẽ nghi binh đối với đạo quân của Quách Quỳ để thu hút sự chú ý của chúng vào đạo quân này, rồi bất thần tấn công vào đạo quân thứ yếu của Triệu Tiết. Ta hoàn toàn có thể giải quyết nhanh đạo quân này vì đây là đạo quân yếu hơn. Sau khi diệt xong đạo quân của Triệu Tiết thì Quách Quỳ sẽ hoàn toàn bị cô lập, mặc cho ta thao túng chiến trường. Như vậy, "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" là vì chúng ở gần nhau về thời gian và không gian, có thể tiếp ứng cho nhau, và để cô lập chỗ mạnh sau khi đã đánh chỗ yếu. Trước kia, Lý Thường Kiệt "tránh chỗ yếu, đánh chỗ mạnh" (tức là tránh Chiêm Thành, đánh Tống) là vì chúng ở xa nhau về thời gian và không gian (một kẻ ở Bắc, một tên ở Nam) nên nhất thời không tiếp ứng cho nhau được, và Chiêm Thành không phải là đối thủ của quân ta, lại từng bị thất bại nên ta nghi binh đối với Chiêm Thành ở phía Nam và tập trung đánh Tống ở phía Bắc (tránh chỗ yếu, đánh chỗ mạnh). Trước đó nữa, Lý Thường Kiệt lại "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" (tránh Tống, đánh Chiêm Thành) không phải vì chúng ở gần nhau mà vì nhà Tống chưa chuẩn bị xong, ta lo đánh Chiêm Thành trước để tạo ra thế chủ động cho việc "tránh chỗ yếu, đánh chỗ mạnh" (tránh Chiêm Thành, đánh Tống) ở bước tiếp theo. Như vậy, giữa chỗ mạnh và chỗ yếu, nơi nào nên đánh, nơi nào nên tránh, và thực hiện việc nào trước, việc nào sau là do sự biến đổi của thế cuộc, do thực tế của chiến trường quyết định. Quả thật: Việc binh biến hóa khôn lường, nào ai có thể liệu lường cùng tận được? Vậy mà, Lý Thường Kiệt có thể thông suốt toàn bộ sự biến hóa của việc binh (người ta thường gọi là "thông biến"), nhìn thấu toàn cuộc chiến tranh, tinh thông binh pháp. Ông quả không hổ danh là một thiên tài quân sự. Những tính toán và quyết định chiến lược của ông đều mang lại thành công cho ông ở từng giai đoạn của cuộc chiến, vì ông biết tùy cơ ứng biến, theo sát diễn biến thực tế của chiến trường. Và thực tế chiến trường lúc đó đã diễn ra theo tính toán của ông: Lý Thường Kiệt giao cho hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đem quân tấn công Quách Quỳ (chỉ là nghi binh), còn ông chỉ huy đại quân tấn công Triệu Tiết. Trong trận này, vì quá say sưa đánh giặc, hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đều tử trận, nhưng họ đã thành công trong việc đánh lạc hướng quân thù, giúp Lý Thường Kiệt thuận lợi trong việc bất ngờ tấn công Triệu Tiết. Trước lúc xuất quân, Lý Thường Kiệt đã sai người lẻn vào đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát ở bờ sông, giả giọng thần đọc to bài thơ "Nam quốc sơn hà" để nâng cao sĩ khí của quân đội:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Và quân của Lý Thường Kiệt đã chiến đấu và chiến thắng rất oanh liệt, vẻ vang. Đạo quân của Triệu Tiết bị đánh bại hoàn toàn. Đạo quân chủ lực của Quách Quỳ hoàn toàn bị cô lập, tiến thoái và phòng thủ đều nan giải: không có lương thực nên phải tiến quân, mà tiến quân thì gặp những khó khăn: không vượt qua được phòng tuyến Như Nguyệt, liên tiếp bại trận, không có thủy quân và quân Chiêm Thành tiếp ứng; đóng quân cố thủ thì cũng gặp những khó khăn: thiếu lương thực nghiêm trọng, bị cô lập, không quen khí hậu nước ta khi cuộc chiến kéo dài, mất địa lợi, bị tập kích sau lưng; rút quân về nước thì lại gặp những khó khăn: trước hết là bị quân ta tập kích sau lưng, sau đó là bị vua Tống trị tội "làm mất thể diện của thiên triều". Nắm được tình thế của giặc, và cũng muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh, tránh tai họa chiến tranh và thù hận lâu dài của hai nước, cho quân thù một lối thoát danh dự, Lý Thường Kiệt sai sứ giả đến gặp Quách Quỳ để thương nghị giảng hòa. Điều này rất hợp với ý muốn của Quách Quỳ nên hắn đồng ý ngay, và hắn đã rút quân về nước. Sau đó, bằng cả ngoại giao và quân sự, Lý Thường Kiệt đã lấn dần, lấn dần và cuối cùng lấy lại những vùng đất bị mất trước đây về cho nước mình. Còn Quách Quỳ sau khi về nước đã bị vua Tống Thần Tông cách chức vì tội "làm hao binh tổn tướng và làm mất thể diện của thiên triều", cho đến lúc chết hắn vẫn chưa được phục chức. Đến đây, cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai đã toàn thắng. Đây là một chiến thắng vĩ đại, oanh liệt và vẻ vang của dân tộc ta trước kẻ thù xâm lược hùng mạnh vào thời Lý, dưới sự chỉ huy thiên tài của Lý Thường Kiệt. Những chiến thắng lẫy lừng, những chiến công oanh liệt của Lý Thường Kiệt mãi mãi chói ngời trong lịch sử dân tộc ta, và những chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật quân sự của ông luôn luôn là những bài học sáng giá trong kho tàng nghệ thuật quân sự nước nhà. (Hết)
Bình Luận Bài Viết