Thực tại, đạo đức, và luân lý không cần đến tôn giáo mà vẫn có; cũng như chân lý (sự thật, truth) tự nó có tính cách thuyết phục không cần tới mặc khải. Lương tri không cần học mà biết, trí tuệ không cần tìm mà có.
“Sự thật luôn luôn xảy ra đơn giản hơn ta tưởng.”
“The truth always turns out to be simpler than you thought.”
Quoted by K.C. Cole, Sympathetic Vibrations: Reflections on Physics as a Way of Life (1985)
Feynman giảng dạy, “Nếu, trong vài tai biến nào đó, mà tất cả những kiến thức khoa học bị tiêu hủy, và nếu chỉ được một câu để truyền lại cho hậu thế, vậy thì lời trăn trối gì sẽ chứa đựng hầu hết tài liệu trong vài chữ? Tôi tin đó là thuyết lượng tử (hiện tượng nguyên tử, hay bất cứ gì ta muốn gọi nó) rằng tất cả vật chất được cấu tạo bởi nguyên tử – những hạt bé nhỏ đó quây quanh trong động tác liên miên bất tận, thu hút lẫn nhau khi chúng bị ngăn cách bởi khoảng cách nhỏ bé, nhưng xô đẩy lẫn nhau khi bị siết nén ép lại gần nhau. Nội một câu đó, ta sẽ thấy, cả một khối tin tức vĩ đại về thế giới, chỉ cần một chút tưởng tượng và suy nghĩ là sử dụng được nó.”
“If, in some cataclysm, all of scientific knowledge were to be destroyed, and only one sentence passed on to the next generation of creatures, what statement would contain the most information in the fewest words? I believe it is the atomic hypothesis (or the atomic fact, or whatever you wish to call it) that all things are made of atoms — little particles that move around in perpetual motion, attracting each other when they are a little distance apart, but repelling upon being squeezed into one another. In that one sentence, you will see, there is an enormous amount of information about the world, if just a little imagination and thinking are applied.”
The Feynman’s lectures on Physics, volume I; lecture 1, "Atoms in Motion"; section 1-2, "Matter is made of atoms"; p. 1-2
Đoạn văn trên của Feynman có thể tóm tắc trong vài chữ – “tất cả vật chất được cấu tạo bởi nguyên tử” hay đúng hơn vật chất hữu hình (observable matters) được cấu tạo từ lượng tử (quantum nhỏ hơn atoms, lượng tử cấu tạo ra nguyên tử.) Những lượng tử mà khoa học hiện nay tiếp tục tìm ra và tưởng là vật nhỏ nhất trong vũ trụ cũng chưa phải là tuyệt đối nhỏ nhất. Hơn nữa, trong thế hệ của Feynman có thể khoa học chưa có ấn tượng rõ ràng về vô sắc (dark matter) và âm khí (dark energy.) Những thứ mà ngay đến bây giờ khoa học chỉ đoán là nó chiếm tới 95% trong vũ trụ nhờ đo lường được sóng trọng lực (gravitational waves).
Tôi xin tóm tắt ý trên: Tất cả do tâm tạo!
Đức Thế Tôn dạy, “Nếu lấy một vật chia chẻ mãi tới còn bằng đầu sợi tóc, gọi là mao trần. Lấy hạt bụi bằng mao trần này chia chẻ còn bằng hạt bụi bay trong hư không, gọi là khích du trần. Hạt bụi bay lại chia chẻ nữa thành vi trần nhỏ, rồi hạt vi trần nhỏ này lại chia ra nữa cho tới khi không còn chia được nữa, gọi là cực vi trần, lân hư trần” (Kinh Lăng-Nghiêm của Hòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch, trang 103)
Vậy thì, sắc tướng nhỏ nhất trong vũ trụ là Lân Hư Trần được Đức Thế Tôn khám phá và miêu tả hơn 2500 về trước. Tuy nhiên, Lân Hư Trần có thể là hạt nhỏ nhất đối với trí tưởng tượng của chúng sinh nhưng cũng chưa phải là nhất thể tuyệt đối. Nhất Như?
Hình như cái mà chúng ta chưa đủ trình độ kíến thức lẫn trí tuệ để mà tư nghị, và nhất là chưa đạt được giác ngộ để tri kiến cái bản lai diện mục của nó đó là Vô Nhất Vật?
Những sắc tướng lẫn vô sắc tướng được hiện tượng hóa là Vật, là Cái, là mặt mủi (diện mục,) và tự tính linh tuệ (bản lai) qua khối óc và ngôn ngữ của sinh vật người chỉ là trườu tượng, mô phỏng, miêu tả nên khó có thể điểm đúng tâm vũ trụ.
Tuy nhiên, chúng ta không nên kém anh minh, bị kinh trì để mà bi quan phản biện rằng nếu đã diễn tả được vô nhất vật thì không còn vô nhất vật nữa.
Cái “còn” không cần phải diễn tả vì nó quá hiển nhiên.
Nhưng, vật “không còn” cần phải diễn tả trước khi nó trở thành “không còn.”
Vì “có” từ “không” mà ra; rồi thì từ “còn” trở lại “không còn.”
Chúng ta không thể “đánh mất” cái chúng ta “không có.”
Đó mới thật sự là “khi đã ‘tìm ra’ bản lai diện mục rồi thì ‘không còn’ bản lai diện mục nữa ... để tìm kiếm.”
Hay điên đầu hơn nữa, chúng ta không còn tìm cái đang có, chỉ còn kiếm cái không có.
Đúng như Phật Hoàng Trần Nhân Tông nói: Trong nhà có báu thôi tìm kiếm.
*
Ngũ uẩn giai có hay giai không?
Nên nói không hay có?
Hình như Phật có ‘noái”: Không nên nói có không.
Vậy thì phải nói không có?
Nói cho cùng thì hình như những tư nghị trên cũng chỉ là những khái niệm đầy giới hạn của thế hệ chúng sinh vật hiện tại (current generation of creatures)?
Cái ông Feynman này lo chuyện trời sập, vì nếu tận thế thì chúng sinh chết tiệt như những loài khủng long và những chúng sinh 20 triệu năm trước đó. Những chúng sinh thời đó đã không kịp để lại một lời trăn trối của chúng nói chi xa vời là chúng ta sẽ để lại di chúc về thuyết nguyên tử, thiên đàng, địa ngục, niết bàn, giác ngộ cho ‘hậu thế’ để làm cái quái gì?
Hơn nữa, cái tân chúng sinh mà Feynman gọi là thế hệ kế tiếp “next generation of creatures” đó có thể tiến hoá cấu tạo thành một thứ gì khác xa bản lai diện mục của chúng nhân sinh. Những sinh vật mới nầy có thể không giống như là nhân loại, không có vô minh với 18 căn trần thức đầy tham sân si để mà hiểu nổi hay cần phải hiểu những vô lý về thượng đế nhân tạo, những vô duyên về Phật pháp lẫn cái thuyết khoa học nguyên tử vô dụng mà ngay cả hiện nay nó cũng đã lỗi thời?
Trái đất không cần biết cái đau khổ, giác ngộ, giải thoát, ca tụng thượng đế, thờ ma quỷ, thành Phật, thành ông trời hay thành yêu quái của chúng nhân sinh lẫn cái văn minh khoa học đầy vô minh của cái đám bụi ‘vi trần người,’ ký sinh vi trùng ăn bám, hủy hoại thiên nhiên, sát hại thú vật, tàn sát lẫn nhau bởi bản chất ích kỷ và tâm địa gian ác nhất trên quả đất này là cái quái gì. Mẹ thiên nhiên (mother nature) không biết thương ghét, sân nộ, thưởng thiện phạt ác, khi nổi cơn giông bảo hay thiên tai để tận diệt khủng long mấy chục triệu năm về trước hay quét sạch chúng sinh trong một ngày gần đây. Đó là luật vô thường (law of impermanence,) luôn thay đổi, không có gì là trường cửu của vũ trụ.
Tương tự, vũ trụ cũng không thèm biết quả địa cầu lẫn thái dương hệ như những hạt bụi trong vũ trụ hiện hữu hay không hiện hữu. Có hay không có Thái Dương Hệ thì vũ trụ cũng không thêm không bớt, không vơi không đầy. Đây cũng là luật như thị của vũ trụ.
Trong vũ trụ học, luật vô sanh vô diệt ghi nhận rằng tổng số sắc-không trong vũ trụ không tăng không giảm, không tĩnh không động – nó được bảo tồn trong A lại da thức. Sắc-không có thể không sinh lẫn không diệt mà chỉ luân hồi qua một sắc-không khác.
“In physics, the law of conservation of energy states that the total energy of an isolated system remains constant—it is said to be conserved over time. Energy can neither be created nor destroyed; rather, it transforms from one form to another.”
Đối với bản tánh duy ngã độc tôn, tự kiêu tự đại của con người thì chúng ta hiện hữu trên thế gian này như là một đại sự nhân duyên, một phép lạ đầy nhiệm mầu và nhất là chúng ta khác với chúng sinh, và các sinh vật khác vì chúng ta thông minh, từ bi, nhân đạo nhất thế giới lẫn trong cõi Ta Bà. Chỉ có chúng ta mới có trí tuệ để giác ngộ thành Phật. Hay, chúng ta là con của thượng đế, với cái bản lai diện mục tham sân si nhất vũ trụ lẫn vô minh y như ngài? Chỉ có triết lý nhân bản là cao siêu nhất thế giới. Chỉ có khoa học nhân sinh là văn minh nhất vũ trụ. Tôi hy vọng tất cả chúng ta không nên chủ quan và ‘hiểu nhầm’ như vậy vì sự thật có thể trái ngược và rất ư phũ phàng?
Hình như, Albert Einstein (1879-1955) có nói: Trí tuệ trực giác là một năng khiếu thiêng liêng và kiến thức thuần lý là đầy tớ trung thành. Chúng ta đã sáng tạo ra một thế giới chỉ tôn kính và tùy thuộc vào tên đầy tớ (kẻ nô lệ) mà quên mất đi cái năng khiếu tự lực (chủ nhân ông) của chính mình.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ và từ bi hỉ xả mà điều tối ư quan trọng là Phật Pháp phải được ứng dụng hữu hiệu như là phương tiện giải thoát, và để giúp chúng sinh đạt tới cứu cánh giác ngộ. Nhưng chúng sinh vì vô minh nên vẫn còn bám trụ và cam tâm làm nô lệ cho những tập tục tham sân si lẫn chấp nhận làm đầy tớ cho sinh tử vô thường nên bị trôi nổi trong biển khổ đau. Nhưng vì tiếng kêu cầu cứu khổ cứu nạn của những tên đầy tớ này quá khẩn thiết làm lu mờ bản lai trí tuệ và diện mục như lai nên có thể vì vậy mà Đức Thế Tôn chưa vội giảng dạy về vũ trụ quan cho những kẻ chưa đủ trình độ trí thức lẫn trí tuệ, và nhất là tập tục và bản chất nô lệ và mặc cãm đầy tớ còn quá nặng cho nên chưa đủ tự tin mà tục diệm truyền đăng để tự giải thoát và làm chủ lấy mình.
Với tinh thần bi trí dũng và với đạo an lạc tự nhiên, Đức Phật tạm thời chỉ khuyến khích nhân sinh tái phát triễn trí tuệ (bát nhã) bẩm sinh để vén màn vô minh trước rồi thì khi mà nhi sinh kỳ tâm, tái kiến tự tánh, thì tức khắc lúc đó tự mình sẽ hoàn toàn giác ngộ và giải thoát khỏi luân hồi sinh tử
Bình Luận Bài Viết