Duyên khởi từ một Phật tử theo quan kiến cá nhân, trong một lần đàm đạo với đồng đạo trong đó có Tâm Tịnh, cho rằng A La Hán, lậu hoặc đã tận, không còn tưởng nữa.
Nếu có vấn đề pháp sự khởi lên giữa bốn chúng đệ tử của Như Lai, hành giả ngày nay nên y cứ vào Đức Phật, y cứ vào Lời dạy của Ngài. Lời Phật dạy đã được kết tập bởi chư Thánh Tăng, và được lưu trữ trong các tạng kinh để làm chỗ nương tựa, chỗ y cứ khả tín khi có vấn đề pháp sự xảy ra. Ngay thời Đức Phật còn tại thế, bốn chúng đệ tử của Như Lai đều y cứ vào lời dạy của Ngài để thọ trì, đặc biệt khi có vấn đề về pháp sự khởi lên, như hai đoạn kinh văn trong Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya như sau:
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy nói cho chúng con ý nghĩa của lời dạy ấy. Sau khi nghe lời dạy của Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì. (Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya. Tương Ưng Kiến. I. Phẩm Dự Lưu)
Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu nói vấn đề pháp sự khởi lên (dhamma samuppàda), và một bên là Thế Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo ni, chúng Cư sỹ nam, chúng Cư sỹ nữ. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo. Vì bạch Thế Tôn, đó là tịnh tín của con. Mong Thế Tôn chấp nhận. (Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya. Tương Ưng Dự Lưu b) Khi Cư sỹ Mahànàma nói vậy, Cư sỹ Ghodhà (người tranh luận pháp với Mahànàma chỉ nói lên lời tán thán Cư sỹ Mahànàma trước Như Lai và bốn chúng đệ tử của Ngài).
Cũng vậy, vấn đề pháp sự này sẽ được minh thị bằng những đoạn kinh văn được trích dẫn trong những bộ kinh Nikàya, được kết tập bởi chư Thánh A La Hán, chỗ y cứ khả tín.
Nhân dịp này, bài kết tập, dựa theo Lời Phật dạy trong những bài kinh thuộc Đại Thừa Hán Tạng, nói thêm về chủ đề Lìa Tưởng Nhập Pháp Giới.
· A La Hán vẫn còn tưởng
1. Điều này được xác quyết trong kinh tạng Pali, Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikàya như đoạn trích sau đây:
Bấy giờ Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có thể có chăng một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể đi trong đất không tưởng đến đất; trong nước không tưởng đến nước; trong lửa không tưởng đến lửa; trong gió không tưởng đến gió; trong Không vô biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ; trong Thức vô biên xứ, không tưởng đến Thức vô biên xứ; trong Vô sở hữu xứ, không tưởng đến Vô sở hữu xứ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong thế giới hiện tại có thể không tưởng đến thế giới hiện tại; trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời sau; Và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
- Này Ananda, có thể như vậy, một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất không tưởng đến đất; trong nước không tưởng đến nước; trong lửa không tưởng đến lửa; trong gió không tưởng đến gió; trong Không vô biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ; trong Thức vô biên xứ, không tưởng đến Thức vô biên xứ; trong Vô sở hữu xứ, không tưởng đến Vô sở hữu xứ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong thế giới hiện tại, không tưởng đến thế giới hiện tại; trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời sau; Và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
- Nhưng bạch Thế Tôn, như thế nào một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất... trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời sau; Và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
- Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tưởng như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất; trong nước không tưởng đến nước... trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời sau. Và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
(Tăng Chi Bộ Kinh_Anguttara Nikàya. Chương Mười Một Pháp. I.Phẩm Y Chỉ Ích. (VII) (7) Tưởng Hay Tác Ý (1)
2. Bảy điều khả tín, đáng tin cậy sau đây minh chứng cho sự thật A La Hán vẫn còn tưởng
2.1 Tần số 10 kinh văn minh chứng cho sự thật này A La Hán vẫn còn tưởng.
10 kinh văn ở những phẩm khác nhau hoặc/và chương khác nhau trong Tăng Chi Bộ Kinh, Anguttara Nikàya cho thấy A La Hán vẫn còn tưởng: gồm 2 đoạn kinh trong Phẩm I. Lợi Ích, Chương Mười Pháp, 3 đoạn kinh Phẩm I Y Chỉ, và 4 đoạn kinh, Phẩm II. Tùy Niệm, Chương Mười Một Pháp
2.2 Minh bạch qua phép đối chứng (kiểm chứng chéo dữ liệu: Cross-validate data hay triangular data trong nghiên cứu xã hội: social research để tăng độ tin cậy, giảm sai số vv). Hai lần Ngài Ananda đã sử dụng phương thức khoa học này để xác định tính trung thực, khách quan của điều được nghe đều tương hợp tuyệt đối giữa Thế Tôn và Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta).
2.2.1Đối chứng giữa lời dạy của Đức Phật và lời thuyết của Sariputta một cách khách quan được thực hiện bởi Ngài Ananda. Sau khi nghe Đức Phật minh thị về một hành giả chứng thiền định sâu, vẫn còn tưởng: đây là an tịnh, sự tịnh chỉ các hành, sự từ bỏ tất cả sanh y… niết bàn. Tôn giả Ananda bạch hỏi ngài Sariputta (Xá Lợi Phất), Tướng Quân Chánh Pháp về cùng đề tài này, và được Ngài Xá Lợi Phất giải thích y như Đức Phật minh thị trong Chương Mười Một Pháp. Phẩm I. Y Chỉ, khiến cho Hiền giả Ananda thốt lên lời cảm thán như đoạn kinh vặn sau:
Thật vi diệu thay, thưa Hiền giả! Thật hy hữu thay, thưa Hiền giả! Sự giải thích của Ðạo Sư và đệ tử tương hợp, tương hội, không tương phản nhau, nghĩa với nghĩa, lời với lời, tức là đối với câu tối thượng. Thưa Hiền giả, vừa rồi tôi đã đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này, Thế Tôn với những câu thế này với những lời thế này, đã trả lời về ý nghĩa này, giống như Tôn giả Sàriputta. Thật vi diệu thay, Hiền giả! Thật hy hữu thay, Hiền giả! Sự giải thích của Ðạo Sư và đệ tử sẽ tương hợp, sẽ tương hội, không tương phản nhau tức là về câu tối thượng. (Tăng Chi Bộ Chương 11 Pháp. I. Phẩm Y Chỉ. Tưởng hay Tác ý 1-2, Tác Ý 9)
2.2.2Đối chứng lần hai giữa lời dạy của Đức Phật và lời thuyết của Sariputta một cách khách quan được thực hiện bởi Ngài Ananda.
Sự đối chứng về A-la Hán vẫn còn tưởng một lần nữa được Ngài Ananda thực hiện giữa Đấng Pháp Vương Vô Thượng và Bậc Tướng Quân Chánh Pháp Xá-Lợi-Phất ở Chương Mười Pháp. Phẩm I. Lợi Ích, Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikàya cho ra kết quả tương hợp, tương hội, không tương phản nhau, nghĩa với nghĩa, lời với lời, tức là đối với câu tối thượng giữa Đức Phật và Ngài Sariputta (Xá-Lợi-Phất)
2.3 Cách thức ‘Tưởng’ hiện pháp: Như thế nào là Tưởng?
Ở Chương Mười Một Pháp, I. Phẩm Y Chỉ, Phần (VII 7 Tưởng hay Tác Ý (1) và VIII 8. Tưởng hay Tác Ý (2)), đặc biệt phần IX 9 Tác Ý, Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikàya, Thế Tôn làm rõ Tưởng tức là Tác Ý như đoạn kinh văn sau
2.3.1Tác ý
Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có thể chăng một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác ý đến sắc, có thể không tác ý đến tai, có thể không tác ý đến tiếng, có thể không tác ý đến mũi, có thể không tác ý đến hương, có thể không tác ý đến lưỡi, có thể không tác ý đến vị, có thể không tác ý đến thân, có thể không tác ý đến xúc, có thể không tác ý đến đất, có thể không tác ý đến nước, có thể không tác ý đến lửa, có thể không tác ý đến gió, có thể không tác ý đến Không vô biên xứ, có thể không tác ý đến Thức vô biên xứ, có thể không tác ý đến Vô sở hữu xứ, có thể không tác ý đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, có thể không tác ý đến đời này, có thể không tác ý đến đời sau. Phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý?
2. Này Ananda, có thể như vậy: Một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác ý đến sắc... (như trên, 9.1)... được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý.
3. Bạch Thế Tôn, nhưng thế nào, một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác ý đến sắc... được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý?
4. Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tác ý như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn". Như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác ý đến sắc... được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý.
2.3.2Thiền tư: “Tưởng” không những được ví như là “Tác Ý”, mà còn được ví như “Thiền Tư”, như đoạn kinh văn được trích dẫn từ Chương Mười Một Pháp, I. Phẩm Y Chỉ như sau:
Thiền tư như thế nào, bạch Thế Tôn là con người hiền thiện thuần thục Thiền tư? Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới sau, và phàm cái gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được tầm cầu, được đạt đến, được ý suy tư, vị ấy Thiền tư, không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy vị ấy vẫn thiền tư. Thiền tư như thế nào, bạch Thế Tôn là con người hiền thiện thuần thục, khiến chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm thiên với chúng Phạm thiên dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục:
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người hiền, thuần thục,
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người bậc Thượng thủ,
Y chỉ gì Ngài Thiền,
Chúng tôi không được biết?
(Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikàya. Chương Mười Một Pháp. I. Phẩm Y Chỉ. X (10) Sandha)
2.4 Cụ thể hóa ‘tưởng’: Tuy vậy vẫn còn tưởng: Tưởng gì?
Những đoạn kinh văn từ Thánh Điển Pali không những xác minh A-la-hán vẫn còn tưởng, mà còn cho thấy cách “Tưởng” hiện pháp cho đến Cụ thể hóa Tưởng: Tưởng cái gì: như 2 đoạn kinh văn trong Tăng Chi Bộ Anguttara Nikàya sau đây:
2.4.1từ Đấng Pháp Vương Vô Thượng Tôn
Nhưng bạch Thế Tôn, như thế nào một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất... trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời sau; Và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
- Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tưởng như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn".
(Tăng Chi Bộ Kinh_Anguttara Nikàya. Chương Mười Một Pháp. I.Phẩm Y Chỉ Ích. (VII) (7) Tưởng Hay Tác Ý (1)
2.4.2từ Tướng Quân Chánh Pháp Xá-Lợi-Phất (Sariputta)
Này Hiền giả Ananda, một thời ở đây, tôi trú ở Sàvatthi, trong rừng Andha. Tại đây, tôi chứng được Thiền định như sau: Trong đất, tôi không tưởng đến đất, trong thế giới đời sau, tôi không tưởng đến thế giới đời sau. Tuy vậy, tôi vẫn có tưởng.
Nhưng trong lúc ấy, Tôn giả Sàriputta tưởng đến gì?
- Một tưởng khác khởi lên trong tôi: "Hữu diệt là Niết-bàn". Một tưởng khác diệt đi trong tôi: "Hữu diệt là Niết-bàn." Ví như, này Hiền giả, lửa được đốt cháy từ mảnh đá nhỏ, một ngọn lửa khác khởi lên, một ngọn lửa khác diệt đi. Cũng vậy, này Hiền giả, một tưởng khác khởi lên trong tôi, thưa Hiền giả: "Hữu diệt là Niết-bàn." Một tưởng khác diệt đi trong tôi: "Hữu diệt là Niết-bàn". Tuy vậy, trong lúc ấy tôi vẫn có tưởng. (Tăng Chi Bộ. Chương Mười Pháp. I.Phẩm Lợi Ích)
Mặc dầu, không còn chấp trước mọi sự vật và hiện tượng, ngoại thân, nội thân, và không còn chấp trước mọi suy nghĩ, cảm xúc, tư tưởng, tri thức, không còn chấp trước những gì được thấy, được nghe, được đạt đến, không còn chấp đời này, đời sau; hay nói một cách khác, không có một pháp nào bị dính mắc, tịnh chỉ tất cả các hành, tức là giải thoát hoàn toàn, nhưng vẫn còn tưởng: Tưởng về trạng thái giải thoát, về vô thường, khổ, vô ngã. Ngay cả ‘tưởng giải thoát’ đó cũng không bị dính mắc, đoạn diệt hoàn toàn. Tuy vậy, vẫn còn tưởng, còn tác ý, còn thiền tư về trạng thái không chấp ngã, trạng thái giải thoát, niết bàn, và nhờ sống an trú chánh niệm với tưởng giải thoát này mà các lậu hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy như Ngài Sariputta (Xá-Lợi-Phật) bạch với Thế Tôn về tự giải thoát trong Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya. Tương Ưng Nhân Duyên như sau:
Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Hiền giả được giải thoát như thế nào, này Hiền giả Sàriputta, mà Hiền giả tuyên bố trí đã được chứng đắc: 'Ta biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa'?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như sau:
"Do tự giải thoát, chư Hiền giả, do đoạn diệt tất cả chấp thủ, ta sống an trú chánh niệm như vậy. Nhờ sống an trú chánh niệm như vậy, các lậu hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy, và ta không chấp nhận tự ngã". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
2.5 Tăng Chi Bộ Kinh - Anguttara Nikàya là một trong 5 bộ kinh Nikàya khả tín của Phật Giáo Nguyên Thủy (tương đương với Kinh Tăng Nhất A Hàm (Ekottara Āgama) vì
2.5.1Được kết tập bởi chư Thánh A La Hán, đặc biệt được ghi chép trên lá buông trong Đại Hội Kết Tập Thánh Điển lần thứ IV bởi 1000 Thánh A La Hán (chứng 4 tuệ phân tích) trong khoảng thời gian 450 năm sau khi Như Lai nhập diệt (Thời Chánh Pháp 500 năm: thời mà còn nhiều đệ tử Phật chứng Thánh quả A-La-Hán sau thời Chánh Pháp sẽ ít hơn. Sau thời Chánh Pháp, việc gìn giữ và bảo tồn giáo Pháp của Thế Tôn sẽ gặp rất nhiều khó khăn qua việc tụng đọc và ghi nhớ. Vì thế, toàn bộ giáo Pháp của Như Lai được ghi lại trên Lá buông vào thời kỳ Chánh Pháp cuối cùng, và được quý chư trưởng lão theo thời gian hết sức gìn giữ và bảo tồn nguyên vẹn), như đoạn hai trích sau:
Một hôm, Đức vua Vaṭṭagāmanī ngự đến chùa Mahāvihāra; nhân dịp ấy, chư Đại Trưởng Lão thưa với Đức vua rằng:
– Thưa Đại vương, từ xưa đến nay, chư Đại đức Tăng có phận sự học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì giáo pháp của Đức Phật. Trong tương lai, đàn hậu sinh là những Đại đức khó mà học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải một cách đầy đủ được. Như vậy, giáo pháp của Đức Thế Tôn sẽ bị mai một mau chóng theo thời gian.
– Thưa Đại vương, muốn giữ gìn duy trì Tam Tạng, Chú giải được đầy đủ, vậy nên tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng, Chú giải ghi chép bằng chữ viết trên lá buông, để lưu lại cho đời sau.
Đức vua Vaṭṭagāmanī hoan hỷ với lời của chư Đại Trưởng Lão.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ tư này được tổ chức tại động Ālokalena vùng Matulajanapada xứ Sri Lankā, khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tâp Tam Tạng lần này gồm 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân Tích, do Ngài Đại Trưởng Lão Mahādhammarakkhita làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện suốt một năm mới hoàn tất việc ghi chép trọn bộ Tam Tạng, Chú giải bằng chữ viết trên lá buông. Sau đó, chư bậc Thánh Arahán kết tập Tam Tạng bằng cách khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản chánh của ba kỳ kết tập Tam Tạng lần trước.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này là lần đầu tiên ghi chép bằng chữ viết trên lá buông đầy đủ bộ Tam Tạng và Chú giải, gọi là: “Potthakaropanasaṅgiti”.
Đức vua Vaṭṭagāmanī Abhaya xứ Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này.
(CÁC KỲ KẾT TẬP KINH ĐIỂN TAM TẠNG PALI- Nguồn: Tỳ Kheo Hộ Pháp Aggamaha Pandita – Bậc Đại Thiện Trí Cao Thượng. Viettheravada: https://vietheravada.net/kinhdien/kettap.htm)
2.5.2Được chư trưởng Lão, đạo cao đức trọng ra sức gìn giữ và bảo tồn nguyên vẹn theo thời gian như đoạn trích sau:
Để Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng sinh được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc chừng ấy. Cho nên, chư Đại Trưởng Lão tiền bối đã dày công gìn giữ và duy trì pháp học Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế, và sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn. Tất cả quý Ngài có phận sự bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo, nên đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, không để cho rời rạc, thất lạc. Chư Đại Trưởng Lão đã cố gắng giữ gìn duy trì từ trước cho đến nay.
(CÁC KỲ KẾT TẬP KINH ĐIỂN TAM TẠNG PALI- Nguồn: Tỳ Kheo Hộ Pháp Aggamaha Pandita – Bậc Đại Thiện Trí Cao Thượng. Viettheravada: https://vietheravada.net/kinhdien/kettap.htm)
2.6 Tùy trí Như Lai: làm theo lời di giáo của Ngài trước những ngày tháng, hay ngay thời khắc nhập diệt
Thế Tôn bậc thấu triệt mọi Pháp xuyên suốt cả 3 thời quá hiện vị lai, dặn dò cẩn trọng với bốn chúng để tử bằng những di giáo trước những ngày tháng, hoặc trước thời khắc nhập diệt của Ngài. Những di giáo này của Ngài cho thấy giáo pháp được kết tập bởi chư Thánh A La Hán là chỗ đáng tin cậy mà quý Phật tử nương theo tu học, và đừng nghe theo bất gì điều gì khác ngoài Thánh Pháp của Ngài.
2.6.1Bốn Đại Giáo Pháp:
Những di huấn của Ngài mà bốn chúng đệ tử theo dòng thời gian nên khắc cốt ghi tâm vì những lời dặn dò của Ngài ý nghĩa và quý báu hơn tất cả bảo ngọc trân châu trong vũ trụ hư không bao la, trước khi nhập Niết bàn, được ghi lại trong Bốn Đại Giáo Pháp, Thánh Điển Pali. Sau đây là đoạn trích dẫn về một trong Bốn Đại Giáo Pháp từ Đại Bát Niết Bàn Kinh thuộc Tương Ưng Bộ Kinh Samyutta Nikàya như sau
- Này các Tỳ kheo, Ta sẽ giảng bốn Đại Giáo Pháp, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỳ kheo ấy vâng lời Thế Tôn, Thế Tôn giảng như sau:
- Này các Tỳ kheo, có thể có Tỳ kheo nói: "Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư".
Này các Tỳ kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỳ kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.
Khi đem so sánh với kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ứng với Luật thời các Ngươi có thể kết luận: Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỳ kheo ấy đã thọ giáo sai lầm. Và này các Tỳ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng.
(Trường Bộ Kinh Samyutta Nikàya. 16 Đại Bát Niết Bàn Kinh. Bốn Đại Giáo Pháp)
2.6.2Pháp và luật là Thầy của các con, không nương tựa một điều gì khác
Ngay thời khắc nhập Niết bàn, Thế Tôn từ mẫn để lại lời di huấn tối thượng (thường luôn khởi lên trong tâm con trong thời mạt pháp khiến cho tâm con bất động, không một chút dao động trước rừng kiến chấp của bất kể ai, ngay cả những Tỷ kheo), là kim chỉ nam cho cho bốn chúng đệ tử hiện thời và vị lai: “Pháp và luật của ta là thầy của các con, đừng nương tựa vào điều gì khác.”
(Trường Bộ Kinh. 16 Đại Bát Niết Bàn Kinh)
2.7 Thuận theo Diệu Pháp
Con đặt trọn tín tâm, không một chút phân vân, không một chút nghi ngờ về Như Lai và Pháp của Như Lai, vì rõ biết Thế Tôn là bậc tuệ tri mọi pháp, thành tựu thập Ba-la-mật tròn đầy, bậc Chánh Đẳng Giác, viên mãn tứ vô lượng tâm - từ ái, lân mẫn thương xót mọi loài. Chân pháp của Như Lai là ánh sáng vi diệu, xua tan đêm trường khổ đau do vô minh chấp thủ của hữu tình chúng sanh, như sư tử hống, làm tan biến nỗi sợ hãi, ưu phiền, sinh tâm vô úy.
Ai có lòng tin Như Lai, lòng tin ấy được an trí, có căn đế, an trú và chắc chắn, một lòng tin không bị lôi kéo bởi Sa môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một vị nào ở trên đời, vị ấy có thể nói: "Ta là con chính tông của Thế Tôn, sinh ra từ miệng, do Pháp sinh ra, do Pháp tạo ra, là con cháu thừa tự của Pháp".
(Trường Bộ kinh Samyutta Nikàya: 27 Khởi thế nhân bổn)
· Lìa Tưởng Nhập Pháp Giới
Chư Phật và chư Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ thật sự lìa tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả lầm, tâm không phân biệt, chứng nhập pháp giới, chứng pháp thân tánh không hoàn toàn, trở lại khuôn mặt hoàn toàn thanh tịnh xưa nay vốn vậy, là Pháp thân quang minh tạng thường chiếu tịch lặng, tự nhiên hiện thân khắp pháp giới, hiện hữu trong và xuyên suốt mọi hiện tượng, sự vật và mọi chúng sanh xuyên suốt cả ba thời quá hiện vị lai.
Thế Tôn quang minh vô cùng tận
Chiếu khắp pháp giới chẳng nghĩ bàn
(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1).
Pháp thân quang minh soi mọi sự
Pháp tánh vô tướng không gì sánh
(Hoa Nghiêm Kinh Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1).
Tất cả sắc hình đều hóa hiện
Mười phương pháp giới đều đầy khắp
Phật thân sắc tướng đồng chúng sanh
(Hoa Nghiêm Kinh Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)
Phật thân thường hiển hiện
Pháp-giới đều đầy đủ
(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Như Lai Hiện Tướng, thứ 2)
Phật thân vốn vô-sanh
Mà thị-hiện xuất-sanh
Pháp-tánh như hư-không
Chư Phật trụ trong đó.
Không trụ cũng không đi
Mọi nơi đều thấy Phật
Quang-minh chiếu cùng khắp
Tiếng tâm đồn khắp cõi.
Vô-thể vô-sở-trụ
Cũng không có chỗ sanh
Không tướng cũng không hình
Chỗ hiện đều như bóng.
(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Như Lai Hiện Tướng, thứ 2)
Chỗ hiện của Pháp tánh, Như Lai qua mọi sự và mọi chúng sanh cùng khắp pháp giới, là như bóng, như huyễn, như sương, như bột nước. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật nói, “Như Lai là như như của vạn pháp, không đến, không đi mà đến cùng khắp”. Cũng giống như đại dương, thời tự nhiên sanh ra tất cả làn sóng. Tất cả các làn sóng tan biến (như bóng, như huyễn, vô thường), hòa tan vào lòng đại dương, đại dương pháp tánh, Phật tánh, quang minh tạng, Như Lai Tạng.
Như vậy, chư Phật và chư Đại Bồ Tát chứng Pháp thân tánh không hoàn toàn mới lìa tất cả tưởng, nhập pháp giới. Như Bồ Tát Di Lặc trong Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm 39 Nhập Pháp Giới dạy Thiện Tài Đồng Tử rằng
“Thiện nam tử! Thân ta sanh khắp tất cả pháp giới, đồng với sắc tướng sai biệt của tất cả chúng sanh, đồng với ngôn âm sai khác của tất cả chúng sanh, đồng với danh hiệu đủ loại của tất cả chúng sanh, đồng với cử chỉ và sở thích của tất cả chúng sanh, tùy thuận thế gian giáo hóa điều phục, thị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh, đồng với tất cả sự nghiệp chúng sanh phàm phu làm, đồng với tưởng của tất cả chúng sanh, đồng với thệ nguyện của tất cả Bồ tát, mà hiện thân mình đầy khắp pháp giới”.
Thiện Tài Đồng Tử tầm sư học đạo với 52 vị Bồ Tát bắt đầu từ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử (Bồ Tát thứ nhất) cho đến khi diện kiến Bồ Tát Di Lặc (thứ 53), chưa lìa tất cả tưởng. Cho đến khi được Bồ Tát Di Lặc mở cửa Lầu Gác để Thiện Tài bước vào học bồ tát đạo bằng cách quan sát cùng khắp, và nhờ vào thần lực của Bồ Tát Di Lặc gia trì, cùng với công đức và trí tuệ của Thiện Tài, Thiện Tài tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả các lầu gác, thấy đủ những cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn. Lúc đó Thiện Tài sanh tâm hoan hỷ vô lượng, thân tâm nhu nhuyến, lìa tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả lầm, nhập vào pháp giới chứng thấy sự sự vô ngại, vận dụng tâm vô ngại cùng khắp, hiện thân cùng khắp, kính lễ cùng khắp.
Sau đó, Bồ Tát Di Lặc khuyên dạy Thiện Tài tiếp tục học đạo với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Bồ Tát thứ 54) và Bồ Tát thứ 55 (bồ tát cuối cùng trong lộ trình tầm sư học đạo của Thiện Tài Đồng Tử) là Phổ Hiền Bồ Tát, để có thể thành tựu đầy đủ ba la mật, đầy đủ trí nhập tạng trang nghiêm tất cả cảnh giới ba đời chẳng quyên mất, thời lìa tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả lầm, hòa nhập vào pháp giới, tự nhiên hiện thân cùng khắp trong và xuyên suốt mọi sự, mọi chúng sanh khắp pháp giới và thông suốt cả ba thời quá, hiện vị lai.
Sau đây là lược đồ tu tập Bồ Tát Đạo theo Lời Phật dạy, Tâm Tịnh xin thương tặng đến quý pháp hữu gần xa:
Nguyện đem công đức này
Hướng về chúng sanh khắp pháp giới
Đồng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Trong tâm từ
Tâm Tịnh
Bình Luận Bài Viết