Thiện Quả Đào Văn Bình
File PDF: Kinh Phật: Nguồn Gốc Và Phát Triển
Có lẽ khoảng ba mươi năm nay tôi đã biết tới cái tên Vũ Thế Ngọc ở thành phố tôi ở, nhưng chưa bao giờ gặp gỡ, tiếp xúc. Rồi khoảng thời gian gần đây một năm, không biết do cơ duyên gì mà hai người quen biết, thường ngồi ở quán cà phê Baguette de Paris do một người Da Trắng làm chủ- không phải để tán dóc cho vui, mà để đàm đạo về Phật pháp. Tiến Sĩ Vũ Thế Ngọc là một học giả uyên thâm về Phật pháp, ông đã tặng tôi các cuốn biên khảo “nặng ký” dầy cộm như Triết Học Long Thọ dầy 457 trang, Long Thọ Thập Nhị Môn Luận dầy 281 trang, Triết Học Phật Giáo: Thập Đại Tông Môn dầy 657 trang, Thiền Tông dầy 202 trang và cuốn Kinh Phật: Nguồn Gốc và Phát Triển dầy 420 trang nhưng ông nói cuốn này chỉ “cho mượn” có lẽ ông chỉ còn một cuốn ở hải ngoại. Sách gồm hai phần và phần Phụ Lục.
Phần Thứ Nhất: Kinh Phật
Bao gồm các chương dưới đây:
Chương 1: Tổng Quan
Trong chương này ông nói rằng, “Bộ kinh điển Phật Giáo Hán ngữ, một sưu tập được coi là một thành tựu văn hóa lớn nhất của lịch sử nhân loại…cho nên khi chánh pháp tắt dần ở quê hương Đức Phật nhưng vẫn tiếp tục chiếu sáng ở Á Đông đó chính là nhờ có kho tàng chính pháp được giữ gìn trong kinh, luận Hán tạng.”
Chương 2: Nguồn Gốc Kinh Phật
I. Lịch sử kinh luận
Tác giả nhận định rằng, “Bằng những nghiên cứu khoa học khách quan, hai kỳ kết tập kinh điển sau khi Đức Phật nhập diệt (chỉ nhớ lại và nói ra, chưa có văn tự) không thể nào thu thập được tất cả các bài pháp mà Đức Phật nói ra. Cho nên tất cả kinh luận mà chúng ta đang có,ít nhiều mang dấu ấn của người kết tập và của các bộ phái Phật Giáo. Ngày nay chúng ta may mắn còn giữ được bộ kinh văn Pali là bộ kinh cổ kính, một bộ phái duy nhất đã liên tục truyền thừa từ hơn hai ngàn năm qua. Cho nên nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử kinh Phật, lẽ dĩ nhiên chúng ta phải tôn trọng bộ kinh này như một nguồn mạch cơ bản. Nhưng để khách quan hơn và hoàn hảo hơn chúng ta vẫn cần phải đối chiếu với các nguồn kinh điển khác của các tông môn bộ phái khác.”
Cũng theo tác giả, có lẽ chỉ sau lần kết tập thứ ba, vì tăng đoàn quá rộng lớn, vì có quá nhiều ngôn ngữ khác biệt nên không hiểu nhau hoặc hiểu đúng cho nên mới có những bất đồng về giáo lý để đi đến việc thành lập bộ phái.
II. Nguồn Gốc Nguyên Thủy
Đến kỳ kết tập thứ ba dưới thời Vua A Dục kinh điển vẫn chưa được ghi xuống bằng văn tự cho nên tìm hiểu nguồn gốc của nguyên thủy chúng ta nên tìm hiểu về các lần kết tập kinh điển.
-Kỳ Kết Tập Thứ Nhất:
Được thực hiện sau lễ trà tỳ của Đức Phật tức vào năm 483 trước Tây Lịch tại Động Thất Diệp gần Thành Vương Xá của Vương Quốc Ma Kiệt Đà kéo dài trong bảy tháng (Phật Giáo bắc truyền nói chỉ có ba tháng). Đại hội do Đại Ca Diếp chủ tọa và lời dạy của Phật do ngài A Nan nói ra, bắt đầu bằng, “Tôi nghe như vầy.”
-Kỳ Kết Tập Thứ Hai:
Sau đó khoảng 100 năm, tại Tỳ La Vệ lại có một kỳ kết tập nữa. Nguyên do là vì Trưởng Lão Da Xá (Yasa) khi đi đến thành Vaisali thấy các tu sĩ ở đây thực hành nhiều điều trái giới luật, trong đó điều nghiêm trọng lớn nhất là nhận vàng cúng dường của thí chủ. Các tu sĩ biện minh rằng phải làm thế để thích hợp với văn hóa và phong tục địa phương. Đại hội có 700 người tham dự nên gọi là Thất Bách Kết Hợp. Kết quả khuynh hướng của Da Xá thắng thế cho nên tương truyền rằng các tỳ kheo cải tiến kéo ra tổ chức một đại hội riêng của mình. Điều này cho thấy dù là tương truyền nhưng bắt đầu có
rạn nứt trong tăng đoàn.
-Kỳ Kết Tập Thứ Ba:
Tới kỳ kết tập này chúng ta thấy đã có sự rạn nứt giữa các tu sĩ mang dấu vết khác biệt địa phương. Chủ đề thảo luận trong kỳ này là của tỳ kheo Đại Thiên (Mahadeva) được tôn xưng là A La Hán- có thể khởi đầu cho tư tưởng Đại Thừa của nhóm cởi mở (đại chúng bộ) với quan điểm thánh quả A La Hán chưa hoàn thành mục đích cuối cùng là giải thoát như Phật. Nhóm bảo thủ thượng tọa bộ cũng không khác nhưng cho rằng khả năng con người chỉ có thể đạt tới quả vị A La Hán mà thôi. Theo tác giả, đến kỳ kết tập thứ ba này, chưa xuất hiện tông môn Đại Thừa và chưa có sự tranh luận về giáo lý.
Theo Đại Sử (Mahavamsa), trong thời kỳ chiến tranh triền miên chết chóc, người ta trốn lính và sống bằng nghề đi tu rất nhiều. Dưới thời thịnh trị của Vua A Dục, Phật Giáo là quốc giáo, tu sĩ được nhiều quyền lợi cho nên ngoại đạo và kẻ thời cơ cũng xuất gia theo Đạo Phật. Lúc đó nhiều tăng sĩ Phật Giáo cũng xa đọa vì có nhiều ân sủng tạo ra một nhóm quyền lực mới có ý đồ thành lập những bộ phái mới với những chủ trương giới luật mới. Những loại giáo lý cải biên này thích hợp với tâm lý quần chúng và nhóm tăng sĩ muốn tự do (phóng túng) hơn. Trong cuộc thanh lọc này, khoảng sáu chục ngàn 60,000) tu sĩ bị loại ra khỏi tăng đoàn. Nhân dịp này Trưởng Lão Moggalliputta-Tissa đã đề nghị nhà vua yểm trợ chư tăng để “Kết Tập Phật Ngôn”. Chính vì thế mà cuộc kết tập thứ ba tại Hoa Thị Thành (Pataliputta) hình thành khoảng năm 234 trước Tây Lịch. Tại kỳ kết tập này người ta chỉ đọc tụng từ trí nhớ mà thôi, kinh luật chưa được ghi xuống bằng văn tự. Kinh điển của kỳ kết tập này là của Thượng Tọa Bộ, cũng là giáo lý của chín bộ phái mà con Vua A Dục là Arahant Mahinda gửi đi khắp nơi, đến tận Tích Lan.
-Các Kỳ Kết Tập Khác
Kỳ kết tập thứ tư thực hiện tại Tích Lan do con Vua A Dục chủ tọa khoảng năm 232 trước Tây Lịch có 68 ngàn tăng sĩ tham dự kéo dài suốt chín tháng bằng tiếng Pali. Bảy thế kỷ sau Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) từ Ân Độ đến Tích Lan dịch ra Pali vì lúc này văn tự Pali đã tàn lụi tại Ấn Độ. Ngoài ra, tùy theo tông môn, người ta còn nói về các cuộc kết tập năm 1868 và 1954 là các kỳ kết tập kinh điển của Phật Giáo Theravada mà thôi.
III. Kinh Phật Căn Bản: Nikaya và Agama
Đa số tông môn tin rằng Kinh Nikaya hiện còn lưu giữ trong kinh điển Pali, dù có ít nhiều thay đổi qua nhiều thế kỷ truyền thừa, truyền khẩu, vẫn là thành quả của kỳ kết tập thứ ba dưới thời Vua A Dục. Nói cách khác Kinh Nikaya bằng Pali là kinh cổ xưa nhất. Nhưng cũng có những bộ kinh bằng Sanskrit tương đương gọi là Agama của các bộ phái khác, thoát thai từ các cuộc kết tập đầu tiên này mà bản dịch Hán Văn gọi là A Hàm. Cho nên kinh nguyên thủy Phật Giáo chính là Nikaya và A Hàm (Agama). Năm 1962, HT. Thích Minh Châu đã làm luận án tiến sĩ với đề tài “So sánh Kinh Trung Bộ A Hàm và Kinh Trung Bộ Pali”.
1. Trường Bộ Kinh và Trường A Hàm
-Trường Bộ Kinh: Trong năm bộ Kinh Nikaya làm thành toàn bộ kinh tạng của Phật Giáo Theravada thì Trường Bộ Kinh dài nhất trong các loại kinh văn hệ Pali.
-Trường A Hàm: Được dịch từ Phạn Văn (Sanskrit) sang Hán Văn năm 413 trước Tây Lịch. Văn chương và đại ý các tiểu kinh trong Trường A Hàm rất giống Trường Bộ Kinh.
2. Trung Bộ Kinh và Trung A Hàm
-Trung Bộ Kinh (Majjhima-nikaya) hệ Pali có 152 tiểu kinh.
-Trung A Hàm do Phật Đà Da Xá (Buddhhayasa) và Trúc Phật Niệm dịch ra Hán Văn vào khoảng năm 415 Tây Lịch từ Trung Bộ Kinh của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.
3. Tương Ưng Bộ Kinh và Tạp A Hàm
-Tương Ưng Bộ Kinh là những đối đáp của Đức Phật tương ứng với các nhóm đặt câu hỏi với Phật.
-Tạp A Hàm do Cầu-na-bạt-đà-la người trung Ấn Độ dịch vào đời Lưu Tống (435 Tây Lịch). Tạp A Hàm là kinh cơ bản với nội dung như sau:
a. Phẩm thứ nhất nói về Ngũ Uẩn
b. Phẩm thứ hai nói về Lục Nhập Xứ
c. Phẩm thứ ba nói về Tạp Nhân
d. Phẩm thứ tư là Đạo Phẩm mà ta thường gọi là 37 Phẩm Trợ Đạo
4. Tăng Chi Bộ và Tăng Nhất A Hàm
a. Tăng Chi Bộ có hơn 2300 tiểu kinh, nhưng con số không thống nhất vì có học giả cắt theo đoạn nên có thể lên tới 7557 tiểu kinh.
b. Tăng Nhất A Hàm do Cù Đàm tăng-già-đề-bà nước Kế Tân dịch từ bản Tăng Chi Bộ tiếng Pali của Đại Chúng Bộ.
5. Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka) không phải là kinh nhỏ mà là tập hợp các bộ kinh nhỏ có từ Sanskrit tương đương là Ksudraka được dịch qua Hán Văn rất sớm gọi là Kinh Pháp Cú hay Phật Sự.
IV. Luật Tạng
Theo tinh thần của các lần kết tập đầu tiên thì Luật Tạng (vinaya-pitaka) được kết tập cùng lúc với các kinh (Nikaya/Agama).Trong kinh tạng Pali thì chỉ có một bộ luật tạng. Còn trong Bắc Truyền có tới năm bộ luật tạng.
V. Luận Tạng
Abhidharma thường được dịch âm là A-tì-đạt-ma gọi là luận nằm trong tam tạng dùng để giải thích kinh và chỉ được công nhận trong kỳ kết tập thứ ba đời Vua A Dục. Tuy nhiên không phải mọi tông phái đều chấp nhận như vậy. Chẳng hạn như Kinh Lượng Bộ chỉ tin vào kinh và không chấp nhận thẩm quyền giải thích kinh của ai.
1. Phân loại kinh Phật:
Gồm có: Kinh, Trùng Tụng, Thọ Ký, Kệ Đà, Tự Thuyết, Như Thị Pháp Hiện, Bản Sinh Kinh, Phương Quảng (chỉ chung các kinh đại thừa), Hỉ Pháp, Luận Nghị, Nhân Duyên, Thí Dụ.
2. Vì có quá nhiều kinh Phật cho nên Tam Pháp Ấn gồm Vô Thường, Vô Ngã và Khổ được dùng để xác định đó là kinh Phật.
Chương 3: Ngôn Ngữ Của Kinh Phật
I. Đức Phật Nói Tiếng Gì? Do sự khảo cứu sau này người ta dám nói rằng Đức Phật nói tiếng Magadhi Prakrit.
1. Magadhi: Ngôn Ngữ Ma Kiệt Đà: Đức Phật là thái tử của một tiểu quốc sống bên cạnh Ma Kiệt Đà và đã sống ở Magadha 25 năm. Vào năm 1961, tiếng Magadha sát nhập vào ngôn ngữ Hindi là ngôn ngữ phổ thông nhất hiện nay của người dân Ấn Độ.
2. Prakit: Là ngôn ngữ phổ thông của xứ Ma Kiệt Đà và các tiểu quốc lân cận.
3. Magadhi Prakrit - Là Ngôn Ngữ Phổ Thông và sẽ là hiểu lầm nếu nói Magadhi Prakrit là Pali. Và nói Đức Phật giảng đạo bằng tiếng Pali là không thể thuyết phục.
II. Đức Phật Không Giảng Pháp Bằng Sanskrit
III. Sanskrit: Tiếng Sankrit - tức tiếng Phạn cổ hơn tiếng Pali. Mãi về sau Á Đông mới biết tới tiếng Pali. Sanskrit là ngôn ngữ của thần linh dùng trong việc tế lễ của các tôn giáo như Ấn Giáo, Kỳ Na Giáo và cả Phật Giáo.
IV. Pali
Tiếng Pali thuộc nhóm ngôn ngữ Ấn Âu thời Trung Cổ. Khi nữ tu sĩ Sanghamitt con Vua A Dục tới Tích Lan mang theo những bộ kinh truyền khẩu mới biết dân Tích Lan không biết cà Pali lẫn Magadhi cho nên phải dịch các chú thích kinh ra tiếng bản địa.
V. So Sánh Sanskrit và Pali
1. Sanskrit là ngôn ngữ cổ hơn Pali.
2. Pali không phải là hậu duệ của Sanskrit.
3. Ngữ pháp Pali đơn giản hơn Sanskrit.
4. Pali và Sanskrit không có chữ viết riêng của nó.
5. Pali và Magadhi không phải là một.
6. Kinh Phật Pali là kinh điển khẩu truyền cổ nhất.
7. Khám phá mới nhất cho thấy kinh văn viết bằng văn tự Kharoshi có sớm hơn văn tạng Pali.
Chương 4: Các Loại Chữ Viết Kinh Phật
Vào thời Đức Phật còn tại thế đã có tới 64 loại chữ nhưng rất đơn giản cho nên trong ba kỳ kết tập chỉ là tụng đọc chứ không ghi lại bằng văn tự. Mặc dù Sanskrit là một ngôn ngữ hoàn chỉnh và phức tạp nhưng không có văn tự của chính nó cho nên người ta đã phải dùng tới bốn loại chữ viết như Kharoshi, Brahmi, Siddam và Devanagari.
1. Kharosthi:
Kharosthi và Brahmi xuất hiện cùng thời và được khắc trên trụ tháp của Vua A Dục. Sau khi Phật Giáo suy yếu thì Kharoshi cũng suy tàn không còn thấy dấu tích ở những nơi khác trong khi Brahmi phổ biến hơn sau phát triển thành chữ Siddham (tác giả cho in hình chữ viết Siddham ở đây) để viết Sanskrit.
2. Brahmi: Là loại chữ viết hình thành khoảng 1000 năm trước Tây Lịch, phổ biến rất rộng rãi sau trở thành văn tự cho nhiều loại văn tự khác nhau gọi là “Nhóm Văn Tự Brahmi”.
3. Siddham (Tất Đàm): Dùng để ghi chép kinh luận Sanskrit của Phật Giáo. Ở Trung Hoa đời Đường, kinh văn chữ Phạn chính là văn tự Tất Đàm. Ngày nay Nhật Bản độc quyền về Tất Đàm.
4. Devanagari: Là loại chữ viết thứ tư rất phổ biến để viết Sanskrit.
Chương 5: Kinh Tạng Của Tam Thừa
Tam Thừa bao gồm Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa. Các nhà nghiên cứu cho biết những kinh văn tối cổ như kinh tạng Pali của Thượng Tọa Bộ cũng đã chứa các yếu tố chủ yếu của kinh văn Đại Thừa. Trong nhiều trường hợp Kim Cang Thừa đã tự sáng tạo ra nhiều kinh luận rồi đề tên Long Thọ. Rồi họ còn vay mượn kinh văn Đại Thừa rồi ghép vào Kim Cang Thừa như Bát Nhã Tâm Kinh ghép vào Phật Thuyết Đà La Ni Tập Kinh.
Chữ Kinh (sutra) có nghĩa là một văn bản ghi chú cách ngôn, lời dạy của thánh nhân được dùng bởi Ấn Giáo, Phật Giáo và Kỳ Na Giáo. Về hình thức, các kinh Phật đều có ba phần chính gọi là Tự Phần, Chính Tông và Lưu Thông.
I. Kinh Tạng Pali (Tiểu Thừa)
So với Hán Tạng thì tạng Pali chuyên nhất hơn vì chỉ có một bộ phái trong khi Hán Tạng không những gồm của nhiều bộ phái mà còn có kinh Tiểu Thừa Theravada và Mật Tông Tây Tạng. Kinh Phật không phải chỉ bao gồm lời của Đức Phật mà còn có lời của các đệ tử, các thánh nhân ngoại đạo và thiên nhân sau đó đều được Đức Phật chấp nhận. Ngay cả những kinh văn cổ như Nikaya Pali và Agama Sanskrit cũng không còn là nguyên văn lời của Đức Phật dù có thể rất gần với chính kim khẩu của Đức Phật.
1. Vấn Đề Chính Thống Của Tạng Pali
Tại Tích Lan, nhận thấy phe phái Phật Giáo Tiến Bộ ngày càng cấp tiến, xa hoa, để chấn chỉnh và chính thức hóa Phật Giáo bảo thủ Đại Tự, Vua Parkrama (1153-186) đã bảo trợ cho một cuộc kết tập kinh điển, Kinh điển của Theravada ngày nay chính là kết quả của lần kết tập này chứ không phải lần kết tập thứ ba dưới thời Vua A Dục.
-Tam Tạng Pali hiện còn có các ấn bản ở Miến Điện, Anh Quốc, Thái Lan.
2. Kết luận về kinh tạng Pali có ba ý kiến. Theo tu sĩ và Phật tử Theravada, kinh tạng Pali là sự lưu truyền chính xác lời Đức Phật và không bị gián đoạn từ lần kết tập thứ nhất. Khuynh hướng thứ hai cho rằng chỉ là sự ghi nhớ của các đệ tử của Đức Phật vì chưa có văn tự ghi lại một cách chính xác lời của Đức Phật. Khuynh hướng thứ ba không bác bỏ niềm tin của Phật tử Theravada nhưng cũng đòi hỏi một sự kiện có thể chứng minh được.
II. Kinh Tạng Hán Ngữ (Đại Thừa)
1. Từ Lịch Sử Phát Triển
Đây là kết quả của sự phân liệt giữa Đại Chúng Bộ và Nhóm Thượng Thủ Lãnh Đạo gọi là Thượng Tọa Bộ. Trong bối cảnh lỏng lẻo của Phật Giáo từ lần kết tập thứ ba, các nhóm Phật Giáo nào đó nếu chấp nhận một quyển kinh nào đó không quy thuộc nhóm thẩm quyền thì được dễ dãi gọi là Đại Thừa.
2. Từ Lịch Sử Tổ Chức
Đây chỉ là sự kết hợp lỏng lẻo vô tổ chức cùng chung mẫu số là tin và hành trì vào một hay nhiều kinh không có trong danh sách của Phật Giáo truyền thống. Cho nên hiện nay vẫn có các giảng sư tin tưởng và tiếp tục giảng thuyết của Huệ Lập (Thế Kỷ Thứ V) và Trí Khải (Thế Kỷ Thứ VI) của thuyết Phán Giáo cho rằng sau khi giác ngộ Đức Phật giảng Kinh Hoa Nghiêm 21 ngày rồi A Hàm 12 năm rổi giảng kinh Phương Đẳng 8 năm.
3. Từ Nội Dung
Có hay không các loại kinh giả hay ngụy kinh? Khác với kinh tạng Pali, Hán Tạng là một kho kinh luận vĩ đãi gồm cả các tông môn Đại Thừa lẫn Theravada và Kim Cương Thừa.
a.Nguồn gốc:
Là các kinh luận dịch từ Phạn Ngữ không hẳn là Sanskrit mà cả Hồ Ngữ. Nhiều khi không dịch từ văn bản mà qua trí nhớ của các đại sư truyền giáo.
b. Quá trình Hán Tạng: Theo Lương Khải Siêu có ba giai đoạn. Giai đoạn phát triển là là giai đoạn Huyền Trang (601-644) và Nghĩa Tịnh (635-713)
c. Giai đoạn hình thành: Có thể hình thành bằng Kinh Tứ Thập Nhị Chương do Ca-diếp-Ma-đằng và Trúc Pháp Lan dịch vào năm 76 Tây Lịch là cuốn kinh Phật đầu tiên được dịch ra Hán văn.
d. Giai đoạn hợp tác: Giai đoạn này nhiều đạo sư dịch giả đến từ Thiên Trúc và Tây Vực và là giai đoạn dịch kinh có tổ chức.
đ.Giai đoạn phát triển: Sau ngài Cưu Ma La Thập, Huyền Trang là giai đoạn cực thịnh.
4. Nội Dung Hán Tạng: Gồm có, A Hàm Bộ, Bản Duyên Bộ, Bản dịch các kinh Đại Thừa, Bát Nhã Bộ, Pháp Hoa Bộ, Hoa Nghiêm Bộ, Bảo Tích Bộ…bao gồm tất cả 18 bộ.
5. Chú Thích Về Một Vài Kinh Đại Thừa:
- Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
-Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
-Tịnh Độ Kinh
-Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Kinh
-Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
6.Kinh Tạng Kim Cang Thừa
Kim Cang Thừa là Phật Giáo Đại Thừa. Có thể nói bất cứ tông môn phái nào thành lập sau kỳ kết tập lần thứ ba cũng có thể gọi là Phật Giáo Đại Thừa. Sự thành lập Phật Giáo Tây Tạng đều do các đại sư Đại Thừa Ấn Độ đến.Về kinh tạng thì Phật Giáo Tây Tạng luôn lấy giáo lý Trung Quán và Duy Thức làm căn bản. Hiện Tây Tạng có bốn tông môn chính và nhiều tông môn phụ. Mỗi tông môn đọc tụng một kinh nào đó khác nhau.
1. Bát Nhã được coi là giáo lý căn bản của Trung Quán.
2. Trung Quán: Được ngài Long Thọ xiển dương và cũng là cơ sở triết lý của tất cả các tông môn Đại Thừa.
3. Nhân Minh: Là môn luận lý tri thức luận khởi nguyên từ ngài Long Thọ.
4. Kangyur: là “ngữ hay lời” tương đương với kinh tạng Đại Thừa.
5. Tangyur: Là luận dịch
6. Tantra Tạng: Tương đương với kinh tạng.
7. Kết Luận Về Kinh Điển Phật Giáo Tây Tạng:
Hoàn toàn khác với Phật điển Hán Ngữ và Phật điển Pali. Với lý thuyết Tam Thân (trikaya) mà Mật Tông giải thích thì Đức Phật trong lịch sử chỉ là một trong muôn ngàn hóa thân hay báo thân của một Đức Phật duy nhất. Nhưng ngày nay với Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền đạo ở Tây Phương lại có khuynh hướng trở lại Phật Giáo cổ truyền của truyền thống Trung Quán và Duy Thức (Du Già Hành Tông), xét lại việc thờ cúng các tà thần và can đảm xét xử những vụ án về tình dục của một số lạt ma.
Phần II: Kinh Điển Hán Tạng, Lịch Sử Hình Thành Hán Tạng
Bao gồm các chương:
Chương 6. Kinh Điển Hán Tạng
Hán Tạng không phải chỉ có kinh Đại Thừa mà còn có cả kinh Tiểu Thừa và Kim Cang Thừa.
I. Phân Loại Kinh: Nhị Đế và Tứ Tất Đàn
1. Nhị Đế: Là lý thuyết căn bản của triết học Long Thọ đưa ra hai chân lý. Đó là chân lý thông tục (thế tục đế) và chân lý tuyệt đối (chân đế). Tục đế là chân lý của con người bị che phủ. Thế nhưng Long Thọ không phủ nhận tục đế mà phải từ tục đế quy ước này để tiến lên chân đế.
2. Tứ Tất Đàn: Để giải thích rốt ráo về sự mâu thuẫn trong kinh Phật, ngài Long Thọ còn nói rõ trong Luận Đại Trí Độ về Tứ Tất Đàn. Danh từ Tất Đàn (siddhanta) có nghĩa là “phương pháp giảng dạy”.
II. Phán Giáo: Học thuyết Nhị Đế và Tứ Tất Đàn có lẽ đã quá đầy đủ để giải thích sự đa dạng và mâu thuẫn của kinh luận Phật Giáo. Đến Thế Kỷ Thứ V, người ta lại thấy các giảng sư Trung Hoa đua nhau phát triển học thuyết Phán Giáo sắp hạng và giải thích vấn đề cao thấp, khác biệt của kinh Phật.
III. Phương Pháp Cách Nghĩa: Cao Tăng Chuyện kể rõ nghĩa của danh từ “Cách Nghĩa”. Khi thảo luận về nghĩa của hai chữ “thật tướng” sau nhiều lần bàn cãi vẫn bế tắc. Tuệ Viễn đã trích dẫn quan điểm của Trang Tử giải thích thì mọi người đều hiểu. Cho nên từ đó Đạo An cho phép học trò được dùng ngoại thư để hiểu kinh điển Phật gọi là Cách Nghĩa. Chữ Phạn “Budha”có tới 12 cách dịch khác nhau cho đến khi chữ Phật được phổ biến.
Chương 7: Dịch Kinh
I. Lý Luận Dịch Kinh:
1. Văn phạm Thiên Trúc khác với văn phạm Trung Hoa, nó đảo lộn cho nên phải dịch ngược lại.
2. Kinh văn Thiên Trúc chuộng thực chất nên đơn giản. Còn Trung Hoa thì ưa vần điệu và văn hoa.(Bản dịch Bát Nhã Tâm Kinh có âm điệu và văn hoa).
3. Kinh luận của Thiên Trúc vốn rốt ráo và nhấn mạnh sự chính xác cho nên lập đi lập lại. Còn trong văn tự Trung Hoa coi đó là rườm rà nên cắt bỏ.
4. Câu văn Thiên Trúc đi kèm ngay với lời giải thích. Vì coi trọng tính trôi chảy của văn chương nên Trung Hoa chú thích ở dưới (cước chú). Lời giải thích tiếp thêm bị cắt bỏ.
Tác giả Vũ Thế Ngọc có dịp so sánh bản dịch Trí Tuệ Giải Thoát của Huyền Trang và Cưu Ma La Thập thì thấy rằng, ngài Huyền Trang theo sát và không bỏ chữ nào của Sanskrit. Và dường như ngài bị ảnh hưởng của lối văn Sanskrit cho nên đọc bản dịch của Huyền Trang sẽ giúp người học thêm tiếng Sanskrit. Còn các độc gỉa Việt Nam, Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên lại thích bản dịch của Cưu Ma La Thập dù trau chuốt nhưng vẫn không xa nguyên văn.
II. Nguyên Tắc Dịch Của Cưu Ma La Thập (344-413)
Lương Khải Siêu đã tôn ngài là “Vua Dịch Thuật”. Chính nhờ ngài mà các nước sử dụng Hán văn như Nhật Bản, Việt Nam mới hiểu được tinh túy, chính xác của kinh luận Phật Giáo. Nguyên tắc căn bản nhất của Cưu Ma La Thập là trau chuốt văn chương. Nguyên tắc thứ hai là tôn trọng diệu lý nghĩa kinh nên không cần phải trau chuốt. Nguyên tắc thứ ba là phải thấu triệt nguyên bản. Nguyên tắc thứ tư là nghiên cứu luận để hỗ trợ cho việc dịch kinh. Nguyên tắc thứ năm là khẩu truyền nhẹ hơn văn bản.
III. Lý Luận Dịch Của Huyền Trang (602-664)
Với thành tích dịch 73 bộ kinh,1330 quyển thì Huyền Trang xứng đáng là người dịch kinh số một trong lịch sử dịch kinh Phật ở Trung Hoa. Huyền Trang không chỉ dịch kinh Đại Thừa và Tiểu Thừa mà cả luận của nhiều tông môn khác nhau. Về Kinh Kim Cương, Huyền Trang phê bình bản dịch của Cưu Ma La Thập, chữ kim cương không phải là trí tuệ mà lòng ngã chấp và phiền não cứng như kim cương, chỉ có kinh này mới phá vỡ (năng đoạn) được. Ngoài ra lại có những chữ không dịch, “Ngũ Chủng Bất Phiên” vì Trung Hoa không có hoặc có nhiều nghĩa như: Bạt già phạm, diêm phù, bồ đề, bát nhã.
IV. Cách Tổ Chức Một Dịch Trường: Có thể là cá nhân dịch thuật. Nhưng có khi nhà vua tổ chức cả một “quốc gia dịch trường” đó là trường hợp của Cưu Ma La Thập và Huyền Trang.
Chương 8: Viết Kinh và In Kinh
Trong chương này có các đề mục như: Dùng văn tự viết kinh, kinh khắc trên đá, kinh viết trên lá của cây Pattra, mà lá gọi là tala mà người Việt quen gọi là lá bối và kinh viết trên vỏ cây.
Về hình thức cuốn kinh in mộc bản mới đầu không đồng nhất. Về sau khuôn khổ trở thành thống nhất. Chữ “quyển” không có nghĩa như một quyển sách mà chỉ có nghĩa như một cuộn như cuộn giấy. (Ở đây tác giả trình bày một số bản kinh cổ in mộc bản, lá bối rất đẹp).
Chương 9: Từ Kinh Lục Đến Đại Tạng Kinh
I. Kinh Lục: Đó là mục lục có nhiệm vụ liệt kê, phân tích và sắp loại kinh luận.
1.Thời Kỳ Phôi Thai: Khởi đầu từ năm 76 là quyển kinh nổi tiếng Tứ Thập Nhị Chương.
2. Sự Xuất Hiện Của Các Kinh Lục: An Lục là quyển mục lục đầu tiên liệt kê các kinh luận Phật Giáo đang có đương thời.
3.Giai Đoạn Phát Triển Kinh Lục: Được đánh dấu bởi sự có mặt của Cưu Ma La Thập.
4. Kinh Lục Tiến Tới Đại Tạng Kinh: Về Phật Giáo, đời Nhà Đường là thời gian phát triển cực kỳ với những dấu mốc quan trọng như Trí Khải thành lập Thiên Thai Tông, Pháp Tạng thành lập Hoa Nghiêm Tông, Huyền Trang thành lập Pháp Tướng Tông (Duy Thức), Huệ Năng phát triển Thiền Trung Hoa.
II. Khắc In Đại Tạng Kinh: Đó là kỹ thuật in mộc bản.
Chương 10: Hoàn Thành Tam Tạng Đại Tạng Kinh
I. Đại Tạng Kinh Qua Các Thời Đại:
Đại tạng kinh có nghĩa là toàn thể kinh Phật trong ba tạng Kinh-Luật-Luận. Việc tổ chức in mộc bản toàn thể các kinh luận xứng đáng gọi là tam tạng kinh là một công trình vô cùng lớn lao mà chỉ có triều đình mới có thể khắc in cả ngàn bộ kinh.Tuy nhiên sau đó nghề in mộc bản tiến bộ hơn nên chùa và các tự viện cũng tự đứng ra in.
1. Đại Tạng Kinh in đời Nhà Tống: Có tám lần khắc in Đại Tạng Kinh gồm có: Thục Bản Đại Tạng Kinh, Đông Thiền Bản, Phúc Châu Tạng, Thích Sa Duyên Thánh Viện Bản,Tư Khê Viên Giác Tạng, Tư Khê Pháp Bảo Tự Bản, Liêu Tạng, Kim Tạng, Hoằng Pháp Tự Bản, Đại Phổ Ninh Tự Bản, Nguyên Quan Tạng. Đời Nhà Minh có: Nam Minh Bản, Vĩnh Lạc Nam Bản, Vĩnh Lạc Bắc Bản, Vũ Lâm Tạng,Vạn Lịch Bản, Kính Sơn Tạng. Đời Nhà Thanh có: Càn Long Đại Tạng Kinh, Tần Gia Tạng. Đời Dân Quốc (Tôn Dật Tiên) có: Trung Hoa Đại Tạng Kinh, Phật Giáo Đại Tạng Kinh, Phật Quang Sơn Đại Tạng Kinh, Đài Loan Phật Giáo Đại Tạng Kinh.
II. Đại Tạng Kinh Triều Tiên:
Triều Tiên là quốc gia thứ hai khắc in Đại Tạng Kinh Hán Ngữ sau Trung Hoa và khắc in tới ba lần.
III. Đại Tạng Kinh Nhật Bản:
Nhật Bản bắt đầu biết đến Phật Giáo Trung Hoa qua cửa ngõ Triều Tiên. Vì không có chữ viết cho nên người Nhật đã phải dùng chữ Hán giống như người Việt trước khi có chữ Quốc Ngữ. Nhật Bản đã biên tập 9 Đại Tạng Kinh chữ Hán gồm có: Khoan Vĩnh Tự Bản (1637-1648), Hoàng Bá Bản Đại Tạng Kinh (1669-1681), Súc Loát Tạng Kinh (1880-1885), Vạn Tự Tạng Kinh (1902-1905), Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, Chiêu Hòa Súc Loát Tạng, Thánh Ngữ Tạng, Cung Tạng.
Đến đầu Thế Kỷ XX, Giới học Phật chuyển mình với sự tham dự của các học giả Tây Phương. Các nhà truyền giáo Tây Phương nghiên cứu Phật học chỉ là ý đồ xuyên tạc và cố tình đề cao văn hoá Thiên Chúa Giáo cho mục tiêu truyền đạo. Nhưng cuối cùng nghiên cứu vẫn là nghiên cứu, các thiên kiến đen tối không thể che giấu lâu dài được phần bản chất. Các nhà nghiên cứu chân chính bắt đầu xuất hiện và phong trào tìm hiểu khách quan ra đời. Sử gia Arnold Toynbee đã nhận định rằng,” Cuộc xâm nhập Phật pháp vào Tây Phương là một sự kiện quan trọng nhất của Thế Kỷ 20.”
IV. Đại Tạng Kinh Việt Ngữ:
Sau 20 năm công phu (1994-2014), HT.Thích Tịnh Hạnh nguyên sinh viên khóa đầu tiên của Viện Đại Học Vạn Hạnh du học Đài Loan từ 1967 là Viện Trưởng Linh Sơn Đại Học Viện Đài Loan đã hoàn tất bản dịch Việt Ngữ Đại Chính Tạng dưới cái tên Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. (Hình chụp Đại Tạng Kinh Việt Nam)
Chương 11: Kinh Đại Thừa Và Kinh Giả
I. Tranh Luận Về Xuất Xứ Của Kinh Đại Thừa:
Truyền thuyết nói rằng ngài Phú Lâu La cùng 500 tỳ kheo khất thực ở Nam Sơn về muộn thì kết tập đã xong nên ngài tuyên bố, “Chư đức đã kết tập xong Phật pháp như vậy rồi, nhưng những pháp mà tôi được riêng nghe từ kim ngôn của Phật cũng nên thọ trì.”
Các kinh nguyên thủy như Nikaya va Agama cũng chỉ nên coi đó là lời dạy của Đức Phật nhưng không thể nói rằng từng câu, từng chữ là nguyên văn từ kim khẩu của Đức Phật. Có rất nhiều người cho rằng kinh Đại Thừa của ngoại đạo hay do các đạo sư chế ra để gom chung vào giáo lý của Đức Phật. Thế nhưng từ xưa đã có những lời giải thích về kinh điển Đại Thừa:
-Do căn cơ và trí tuệ của mỗi người khác nhau cho nên có thể đã có kinh Đại Thừa mà Phật đã nói riêng cho một nhóm đệ tử nào đó.
-Theo lý thuyết về Tam Thân thì Đức Phật có vô số ứng thân và xuất hiện khắp nơi, mọi thời gian để nói pháp Đại Thừa.
-Các nhà tu hành theo Đại Thừa không quan tâm tới nguồn gốc kinh điển mà họ xem nội dung của nó có thực sự là giáo huấn của Đức Phật hay không. Họ không ngây thơ và mê tín vì điều quan trọng nhất với họ là hành trì và thực chứng. Ngoài ra Thiền Tông - môn phái phát triển sau cùng của Đại Thừa còn dõng dạc tuyên bố “Bất Lập Văn Tự”, chẳng cần y cứ vào kinh điển nào hết mà chỉ trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Tóm lại kinh luận Phật Giáo không phải được trao truyền chỉ vì đức tin hay vì giáo điều mà vì thực chứng của các bậc thầy, bậc tổ trong quá khứ. (Theo tôi, trao một đống kinh không bằng trao kinh nghiệm tu hành thực chứng cho thế hệ sau, Kinh điển chỉ để đọc tụng mà không có kinh nghiệm tu chứng thì chỉ là đồ thờ mà thôi. Cũng giống như trong nhà có bàn thờ ông bà. Ngày xưa ông bà oanh liệt mà nay mình tầm thường thì bàn thờ kia cũng là vô ích.)
II. Tranh Luận Ở Nhật Bản:
Tiến Sĩ Murakami (1853-1929) là tu sĩ Tịnh Độ thuộc Chùa Higashi Hongan nói rằng Phật A Di Đà chỉ là nhân vật tưởng tượng, Cực Lạc chỉ là một thế giới lý tưởng, không thật có. Lời tuyên bố của ông gây nên một làn sóng bênh-chống dữ dội. Thế nhưng Murakami lại nói thêm rằng, bằng nhãn quan lịch sử thì kinh Đại Thừa không phải là lời dạy của Đức Phật. Bằng nhãn quan giáo lý thì phải chấp nhận rằng đó là lời dạy của Đức Phật. Hai năm sau, Tiến Sĩ Maeda- một nhà nghiên cứu Phật học danh tiếng nói rằng, giáo lý của Đức Phật rất sâu sắc nên mỗi người nghe có thể thẩm thấu qua nhiều trình độ khác nhau tùy theo khả năng thấu hiểu của từng người. Cho nên theo ông, tư tưởng đại thừa và tiểu thừa xuất hiện cùng thời từ giáo pháp của Đức Phật chứ không phải sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Nhận định của Maeda cũng là nhận định của đa số các học giả hiện đại. Và HT. Thích Minh Châu trong luận án tiến sĩ So Sánh Kinh Trung Bộ A Hàm Hán Ngữ và Kinh Trung Bộ Pali…đã được các giáo sư khen ngợi khi nói rằng “Cả hai căn bản đều khởi từ một nguồn suối duy nhất”.
III. Kinh Giả: Dị Kinh và Ngụy Kinh:
Đây là những kinh không có bản Phạn ngữ mà chỉ có văn bản Hoa Ngữ do một số đại sư sáng tác. Nhưng thước đo xem kinh đó có đúng với giáo lý của Đức Phật hay không, đó là Tam Pháp Ấn: Vô Thường, Vô Ngã và Khổ.
IV. Phân Loại Ngụy Kinh:
Có năm lý do phát xuất ngụy kinh, đó là:
-Sáng tác của những người muốn phá hoại Phật Giáo vì lý do nào đó.
-Sáng tác của những kẻ ngông cuồng.
- Những kẻ muốn kiếm một chút lợi hay danh.
-Đề cao tín điều nào đó của một bang hội nào đó nhất là ở các tổ chức tín ngưỡng địa phương. (Như ở Núi Sam, Núi Sập, Núi Cấm An Giang thường đẻ ra rất nhiều ông Phật với những lời sấm giảng nói như kinh Phật)
-Có thể có mục đích tốt nghĩ rằng họ hiểu Phật pháp mượn danh kinh Phật để nói điều phù hợp với thời thế, để răn đời… nhất là ở Trung Hoa. Các “kinh” như Phạm Võng, Thập Điện Diêm Vương, Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân…đều là ngụy kinh.
Phần Phụ Lục
Phần này gồm 116 trang với các đề mục như sau:
-Ý Nghĩa Trọng Đại Của Kinh Phật: Chữ Karoshi Khắc Trên Vỏ Cây
-Một Số Ảnh Tượng Phật cổ ở Gandhra.
-Tự Học Tiếng Sanskrit (gồm 5 bài)
-Về ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dầy 41 trang.
Nhận Xét
Đây là công trình quý giá của một học giả có lẽ cả đời đã dùng để nghiên cứu kinh Phật, giúp chúng ta hiểu kỹ hơn về “vấn nạn” nguồn gốc và tính chính thống của kinh Phật, sự phát triển của Phật Giáo và nguyên do đâu có Tiểu Thừa và Đại Thừa. Do thành lập được tổ chức Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới cách đây 70 năm và nhất là mỗi năm Đại Lễ Vesak (Tam Hợp) được các quốc gia Phật Giáo tổ chức, quy tụ lãnh đạo quốc gia, các cao tăng, học giả, các nhà nghiên cứu trên toàn thế giới ngồi chung trong không khí “hòa hợp tăng” tương kính, cho nên chẳng còn ai thắc mắc hay bàn luận gì về tính chính thống của kinh điển Bắc Tông. Tất cả đều là con Phật, tất cả đều thành Phật. Khi báo chí Tây Phương gọi Đức Đạt Lai Lạt Ma là “Phật Sống” ngài nói rằng đừng bậy bạ gọi tôi là Phật Sống mà tôi chỉ là đệ tử của Đức Phật. Khi nhận mình là đệ tử của Phật thì phải tu theo pháp Phật chứ? Tu theo Bà La Môn thì là tín đồ Bà La Môn. Vậy thì Mật Tông của Tây Tạng cũng là “chánh pháp nhãn tạng” cũng từ Đức Phật mà ra. Chỉ có lời giáo huấn của Đức Phật mới có thể chinh phục được thế giới Tây Phương nơi mà niềm tin Thiên Chúa Giáo đã thấm vào mạch máu, vào gia đình họ 2000 năm nay. Không một ai dù là dị nhân có thể sáng chế ra một tôn giáo, ngụy kinh để chinh phục được khoảng 600 triệu tín đồ (ngoại trừ Trung Quốc) và đang xâm nhập, bành trướng tại xã hội Tây Phương qua các học giả, trí thức chuộng khoa học, không mê tín. Chỉ có lời dạy của Đức Phật mới có thể thuyết phục được thế giới Tây Phương ngày nay mà thôi.
Thế nhưng tại Việt Nam và trên diễn đàn hải ngoại ngày nay vẫn có một vài “con nhạn lạc bầy” nói rằng kinh Đại Thừa là ngụy kinh và Phật A Di Đà chỉ là tưởng tượng, khiến lung lạc một số tín đồ. Chúng ta không trách các Phật tử có tín tâm nhưng ngây thơ. Và chúng ta mặc kệ những con nhạn lạc bầy này đi theo đường lối của họ. Nhưng tôi đặt câu hỏi tại sao tu theo ngụy kinh mà cả ngàn năm nay, bao nhiêu vị đã chứng đắc và sản sinh ra bao thánh tăng?
Khi đọc kinh tạng Pali, tôi như cậu bé được cha mẹ dạy dỗ chi tiết vừa ân cần vừa nghiêm. Nhưng khi đọc kinh điển Đại Thừa thì tôi lại sảng khoái như một cậu bé đã lớn, bước vào đời với biết bao tư tưởng, học thuyết của đại học. Thế nhưng lời dạy của cha mẹ vẫn là căn bản. Tiểu Thừa giống như gốc rễ. Còn Đại Thừa giống như hoa trái làm cho “Cây Bồ Đề” tỏa hương thơm, lung linh với muôn ngàn màu sắc. Theo tôi, tu theo Nam Tông là tiệm tu nên chắc ăn. Còn tu theo Bắc Tông là đốn ngộ, chứng đắc nhanh nhưng cần phải giữ nghiêm giới luật nếu không dễ sa ngã và trở nên phóng túng. Ngày nay dưới sự cám dỗ, mời gọi của thế giới đầy tham-dục. Với chiếc điện thoại cầm tay, mọi cái xấu, mọi cám dỗ có thể chui vào chùa, tịnh xá, tu viện một cách dễ dàng. Bắc Tông cần phải trì tụng giới luật mỗi ngày và phải có can đảm trục xuất ra khỏi giáo hội những tu sĩ phạm giới dù là sáu chục ngàn (60,000) như dưới thời Vua A Dục.
Sau hết, chắc chắn Nam Tông và Bắc Tông sẽ cùng tồn tại ở các khu vực văn hóa, truyền thống khác nhau và cùng triển khai giáo lý của Đức Phật.
Xin trân trọng đóng góp và giới thiệu,
Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 12/12/2025)
(*) Vài nét về tiểu sử học giả Vũ Thế Ngọc:
-Tiến Sĩ Chuyên Khoa Phát Triển Kinh Tế University of California
-Kỹ sư điện tử và sinh y khoa Boston University
-Thạc Sĩ giáo dục Boston State/National University
-Cử Nhân và Cao Học Văn Học Việt Nam Viện Đại Học Vạn Hạnh
-Đã xuất bản khoảng trên 20 cuốn sách về Phật Giáo
File PDF: Kinh Phật: Nguồn Gốc Và Phát Triển
Bình Luận Bài Viết