1. Giới thiệu
Người-đọc-sử tưởng rằng vua Quang Trung sau khi phá quân Thanh năm 1789 thì sẽ mở một chiến dịch nữa diệt luôn quân chúa Nguyễn ở Gia Định, bởi đó dường như là việc lớn nhứt mà trước sau nhà vua cũng phải làm. Trái lại, chẳng hề có ‘chiến dịch’ nào như vậy suốt ba năm liền cho tới khi nhà vua mất năm 1792, ngoài vài cuộc hành quân lẻ tẻ tiễu trừ tàn quân trào Lê. Đó ắt là một lý do để trào Tây Sơn bị thất bại chung cuộc năm 1802, mà chưa ai nhận ra, dù sử gia Phạm Văn Sơn (1915–1978) có nêu lý do chánh là trào Tây Sơn thua vì kỹ thuật quân sự phương Tây giúp cho chúa Nguyễn.[1] Đành là vậy đi, song le, một người ‘tiến thoái rất nhanh, nếu cần thì hết sức cương quyết’ như vua Quang Trung, với lực lượng thiện chiến trong tay, mà chẳng làm một hành động nào gọi là ‘proactive’ để đối phó quân chúa Nguyễn, sau rốt phải khuyên tướng sỹ bỏ Thuận–Quảng rút ra Nghệ An khi quân chúa Nguyễn vẫn chưa dám đánh tới, thì thực là khó hiểu.
Phải chăng đã có biến cố gì xảy ra làm cho nhà vua bó tay trong ba năm cuối đời? Ta sẽ tìm hiểu điều đó, dựa theo một ít tài liệu thời Tây Sơn còn lại tới nay.
2. Khảo cứu
2.1. Ba năm cuối đời vua Quang Trung
2.1.1. Công văn
Đại Việt quốc thơ là một bộ hồ sơ chữ Hán chép lại công văn của nước ta và nước Thanh giao thiệp cùng nhau, gồm 6 tập:
Những hồ sơ đó cho biết hai nước điều đình mấy tháng thì thỏa hiệp như sau:
Ở đây ta đọc kỹ lại mấy hồ sơ (có lược bớt đôi chỗ cho gọn).
Tiểu-mục nước An-Nam là họ Nguyễn, kính cẩn trình lên hai vị đại-nhân thiên-triều, trước màn như là ngọc soi rõ…
Tiểu-phiên … mới ra dựng nước, phải nhờ thiên-triều phong hiệu, mới vỗ yên được nhân dân, nên không đợi tiểu-phiên sang năm thân hành đến tạ ân, mà đã đội ơn hoàng-đế phong tước và đặc ân ban cho bài thơ … thật là vinh quang khác thường…
Nay hai đại-nhân đem mệnh nhà vua từ phương xa trở lại, tuyên rõ điều nhân của nhà vua… Tiểu-phiên biết báo đáp bằng cách gì, chỉ biết … đợi đến sang năm làm lễ vào chầu, cúi đầu sân nhà vua… ngõ hầu tỏ ra chút lòng thành thực…
Hiện tại, tiểu-phiên vì làm đô-ấp ở địa phương tỉnh Nghệ An, lúc mới vì cảm gió sương, mắc chứng thương-hàn tựa như sốt-rét, đã chữa gần khỏi, khi nghe có mệnh ân-phong, vui mừng … không thể hình dung ra được. Hôm 8 tháng này, từ tỉnh Nghệ An ra đi, đến trước thành Thăng Long, kính cẩn đón thơ và tờ sắc, để thỏa lòng chiêm ngưỡng cùng yết kiến hai vị đại-nhân, giải bày tâm sự. Không ngờ lúc mới cảm, tiểu-phiên đã không được nghỉ ngơi, phần nhiều gắng gượng cử động, đến lúc đi lại cảm nhiễm thêm, bệnh cũ trở lại, đến đầu địa phương huyện Đông Thành, chứng nóng rét lại phát, người rất mệt mỏi, không thể gượng yếu ra đi, đành tạm ở lại để chữa thuốc… không thể đúng kỳ hẹn để thụ phong… thật thêm sợ hãi.
Nay cẩn thận sai con đẻ là Nguyễn Quang Thùy, đem bề tôi thân về hàng võ là Ngô Văn Sở, bề tôi thân về hàng văn là Ngô Thời Nhiệm, đến trước thành Thăng Long cùng với viên mục văn võ vẫn giữ thành đó là Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Danh, chỉnh đốn nghi-trượng cờ quạt, hộ vệ long-đình* rước thơ và tờ sắc, cùng đón hai đại-nhân đến công-quán bờ sông Phú Lương dừng ngựa. Tiểu-phiên để ý tìm phương điều trị cho chóng khỏi, rồi nhanh chóng đi về thành Thăng Long, ngày thường đi hơn mười ngày, mà đi gấp chỉ bảy tám ngày, thiết tưởng kỳ hạn đúng ngày 25 tuyên phong … Tiểu-phiên dám đâu nghĩ lại để thay đổi, chỉ vì thân mọn mang bệnh, làm sai lạc với nhật-kỳ, nên phải cứ sự thực kêu trước, kính mong hai đại-nhân chân ngọc tạm dừng, xe hương hơi chậm, để tiểu-phiên bệnh-chứng hơi đỡ, nhanh chóng lên đường về Thăng Long, sau khi tôi được tham yết, sẽ chọn ngày tốt để thụ phong, làm xong điển-lễ. Vậy trông lên hai đại-nhân xét cho mà chọn định vào ngày khác…
Đến như kéo dài nhật-kỳ, phạm lỗi lờn với mệnh của người trên, tiểu-phiên sợ hãi rất nhiều, nhưng ý không ngờ như vậy, việc không chủ như vậy. Tiểu-phiên sợ mệnh trời, thờ nước lớn, phải tâu lên hai đại-nhân soi xét, lượng tình mà chu toàn, cho chuyển bẩm tước Công, Đốc-bộ-đường** kể rõ nguyên do tiểu-phiên giữa đường mắc ốm, và việc xin đổi ngày tuyên phong, may tiểu-phiên miễn được điều trái mà xem được thành công, vua tôi tiểu-phiên rất mong muốn như thế…
(*kiệu, **Phúc Khang An)
Nhận xét: Theo công văn này, vua Quang Trung mắc một chứng bịnh nặng ‘tựa như sốt-rét’ nên khó lòng ra Thăng Long đúng kỳ hạn ngày 25 tháng 9 để thụ phong, mà phải xin dời ngày lại.
Rốt cuộc, điển-lễ [phong vương] dời lại tới ngày 17 tháng 10 (tức là 03/12/1789) mới làm xong, theo lời một công văn khác của hai quan sứ gởi Ngô Văn Sở, và lá thơ dưới đây.
Ngày 18 tháng 10, chúng tôi dậy sớm, lúc mới sáng còn đợi công văn chưa kịp phát ra nhà trạm, chợt tiếp bức thư chính tay quốc-vương viết, càng rõ tình ân cần trong lúc chia biệt, xiết bao nhiêu tình theo đuổi ràng buộc. Vâng quốc-vương dặn tìm cho thứ nhân-sâm, chúng tôi đã giao chức tổng-quản đi trước sang khỏi cửa quan, hội-tề với các vị, mới kiếm được để gửi sang, nhưng bất quá chỉ được như số đã dặn, sợ không được nhiều hơn. Ngoài ra quốc-vương lại có công-văn gởi chức quan Tả-giang-đạo, chúng tôi đã thu nhận rồi.
Nhận xét: Theo thơ này, vua Quang Trung đang mắc bịnh nặng phải nhờ quan sứ kiếm mua dùm thuốc bổ là nhơn sâm.
… Trẫm xét con y là Nguyễn Quang Thùy, vì đi đường cảm chứng sốt rét, bọn Phúc Khang An bằng lòng cho về trước để điều trị và phái ủy nhân viên hộ tống ra khỏi cửa ải Trấn Nam, cùng đem trình lên các tờ biểu của Nguyễn Huệ tạ ơn và chúc mừng, bọn Phúc Khang An làm như thế thật là phải lẽ…
Trẫm xét tờ biểu của vua nước đó dâng lên, lời rất thành khẩn, mà tình mến trông nhà vua, bởi ở giữa dạ, rất là đáng khen, nên đặc ân dùng bút son phê trong tờ biểu mà phân tách kỹ để tuyên bảo.
Còn như con y là Nguyễn Quang Thùy, đương lúc tuổi trẻ đã có ý tới nơi chầu nhà vua, Trẫm khen lòng trung hiếu bởi ở tính trời, trước Trẫm đã giáng chỉ dụ phong cho làm chức thế-tử, nay vì đi đường mắc chứng sốt rét, quốc-vương xin cho trở về để điều-trị, nay chuẩn cho lời xin ấy.
Nguyễn Quang Thùy ít tuổi người yếu, đi xa muôn dặm, lại thêm phần khó nhọc, lũ Phúc Khang An cho phái bồi-thần nước ấy là Đặng Văn Chân cùng cháu gọi vua nước ấy bằng cậu là Phạm Công Trị đi kèm để ra khỏi cửa quan, dặn phải điều trị cho khéo, điều đó rất là phải…
Còn như vua nước đó từ tạ việc Trẫm cho là lễ ‘đem con vào bệ-kiến’, lời rất khiêm-cẩn. Đại-hoàng-đế xem tờ biểu, rất rõ lòng thành của quốc-vương, ân điển được hơn người, là phận mình được như thế, quốc-vương cần nên kính vâng dụ-chỉ, mà bất tất phải từ tạ, nên bảo kỹ càng rõ ràng cho quốc-vương để được yên tâm đi đường…
Dụ kể trên phải gửi trước tới ba vị: chức đại-học-sĩ tước Công họ Hà, chức đại-học-sĩ tước Bá họ Hòa tên tự là Ký, chức hiệp-biện đại-học-sĩ tổng-đốc hai tỉnh Quảng tước Công họ Phúc.
Nhận xét: Theo công văn này, Nguyễn Quang Thùy theo phái đoàn sang Tàu chúc thọ thì giữa đường bị bịnh sốt rét [từ trước] nên phải quay về.
2.1.2. Thơ phú
Thời trào Tây Sơn, dân gian có câu ca dao ám chỉ chuyện Nguyễn Hữu Chỉnh:
Ai đem con sáo sang sông
Nên chi con sáo sổ lồng sáo bay.
Quốc văn thì có các loại: trữ tình, tả chân, phê bình, chưa kể trào phúng; với nhà thơ nổi tiếng Hồ Xuân Hương. Ở đây ta đọc lại một đoạn thơ trữ tình, trích trong bài Ai tư vãn, mà vị nào đã viết dùm cho Bắc-cung hoàng-hậu (Lê Ngọc Hân), kể chuyện ‘vua Quang Trung nhuốm bịnh’ như sau.[3]
Những ao ước trập trùng tuổi hạc
Nguyền trăm năm ngõ* được vầy vui
Nào hay sông cạn bể vùi
Lòng giời giáo giở** vận người biệt ly
Từ nắng hạ mưa thu trái tiết
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên
Xiết bao kinh sợ lo phiền
Miếu thần đã đảo thuốc tiên lại cầu
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước
Phương pháp nào đổi được cùng chăng
(*ngõ hầu, **lòng trời tráo trở)
Nhận xét: Theo đoạn thơ này, vua Quang Trung mắc bịnh dây dưa mấy năm rồi mới qua đời, dù người thân đã đi khắp nơi tìm cách cứu chữa, nào thuốc men, nào cầu đảo—chớ chẳng phải nhà vua bỗng dưng té cái đùng rồi chết, như dân gian đồn đại.
2.1.3. Suy luận
Gom lại các điều nhận xét bên trên, ta thấy dường như vua Quang Trung và con là Nguyễn Quang Thùy đã bị sốt-rét mà chẳng điều trị—vì thời đó chưa có thuốc điều trị. Nguyễn Quang Thùy may vẫn sống, trái lại, vua Quang Trung chẳng qua khỏi.
Một giả thiết khác cho rằng quân Tây Sơn dùng thứ võ khí kêu bằng ‘hỏa-hổ’ (incendiary weapon/device), với nhiên liệu là bột ‘phosphorus’ trắng (tetraphosphorus, P4), để phun ‘lửa’, và vua Quang Trung đã bị thứ lửa này phun trúng trong các trận đánh xáp-lá-cà với quân Thanh, làm cho phỏng khắp người, rồi thành bịnh nặng.[4] Song le, bị phỏng như vậy ắt chẳng gây cho nhà vua ‘chứng nóng rét’ như ta đọc ở các công văn bên trên.
Có lẽ vua Quang Trung nhiễm chứng sốt-rét trong chiến dịch bình Thanh, mà đích thân nhà vua cầm quân xung trận. Theo công văn số 1 bên trên, sau chiến dịch, nhà vua bị bịnh tái phát nên có yêu cầu các quan sứ dời lại ngày làm lễ ‘phong vương’, và họ đã chấp thuận dời lại gần một tháng, từ 25 tháng 9 tới 17 tháng 10. Dù vậy, tới nay, chẳng có hồ sơ hay tài liệu nào cho ta tin chắc rằng đích thân vua Quang Trung đã dự lễ phong vương.
Và nếu vua Quang Trung không thể đi vài trăm cây số từ Nghệ An tới Thăng Long để dự lễ phong vương, thì ắt nhà vua cũng không thể nào đi vài ngàn cây số từ Nghệ An qua Bắc Kinh để dự lễ chúc thọ Thanh Cao Tông. Nhà vua có đi thì giữa đường nổi cơn sốt-rét cũng phải quay về như Nguyễn Quang Thùy mà thôi. Tới nay, chẳng có hồ sơ hay tài liệu nào cho ta tin chắc rằng đích thân vua Quang Trung đã dự lễ ‘bát tuần vạn thọ’ của Thanh Cao Tông.
Chuyện vua Quang Trung mắc bịnh là một trường hợp bất-khả-kháng (force majeure) gọi theo từ ngữ thời nay; ở trường hợp này, nhà vua có một cách để xử trí mà thôi: cho người thay mình đi dự hai cái lễ kia. Việc này chẳng phải trúng hay trật, mà là việc chẳng-đặng-đừng, nhà vua có quyền làm như vậy để tôn trọng thỏa hiệp với trào Thanh. Cho nên, trào Thanh có nghi là đích thân vua Quang Trung đã dự hai cái lễ kia hay chăng, thì cũng chẳng thành vấn đề.
Khi quyết định lấy người thay mình, vua Quang Trung ắt chẳng cần người có dong mạo giống mình, bởi trào Thanh nào ai đã biết mặt nhà vua, huống chi, chuyện người giống người thì hiếm lắm. Thay vì vậy, nhà vua sẽ tìm một người thân thích ruột rà, cùng lứa tuổi, đang làm việc cho mình, nói chung là người đáng tin để nhà vua yên tâm giao việc hệ trọng.
Nguyễn Lữ, anh/em ruột của nhà vua, dường như là một người đáng tin, nhưng ta chưa chắc lúc đó Nguyễn Lữ có còn hay chăng, dù sử gia Schreiner, người Pháp, cho biết tới năm 1792 Nguyễn Lữ vẫn còn ở Quy Nhơn với vua Thái Đức.[5]
Theo tài liệu khác, vua Quang Trung đã chọn một người cháu tên Phạm Công Trị thay cho mình. Song le, theo công văn số 3 bên trên, Phạm Công Trị là người đi kèm Nguyễn Quang Thùy về nước khi vị thế tử này mắc chứng sốt-rét giữa đường sang Tàu.
Bỏ qua Nguyễn Lữ và Phạm Công Trị, thì dưới trướng vua Quang Trung lúc đó có ai xứng đáng hơn hết để thế vai nhà vua?
Bùi Đắc Tuyên.
Tôi tin là vậy. Còn ai xứng đáng hơn Bùi Đắc Tuyên, anh ruột của hoàng hậu Bùi Thị Nhạn, lúc đó làm quan ở bộ Lễ?
Nói tóm lại, trong khi chờ thêm dữ liệu mới hơn, tôi cho rằng:
Dưới đây là cảm tưởng của hai quan sứ trên đường về nước sau khi làm xong lễ phong vương cho ‘vua Quang Trung’.2
…Nay lại tiếp thư của quốc-vương đưa lại vào hôm 19, nhã ý tha-thiết, ngảnh lại trông mây phương Nam, xiết bao nghểnh chân vui mừng.
Mấy hôm chúng ta lại thêm nghĩ ngợi, lễ tuyên phong đã thành, vội vàng trở về không kịp giáp mặt đề nói truyện tương biệt, vừa rồi chúng tôi ở quán Thị-Cầu lên đường đi, tiếp mở phong thư đưa lại, cảm lòng quốc-vương vẫn để ý quyến luyến, lại vỗ về cả các viên-chức cùng đi, trong thư nói về đi lại đường xa, mong sao quý-thể được như thường.
Quốc-vương lúc mới dựng nước, phải cần ở yên dân, huống chi nước An-Nam liền năm mất mùa, lại sau khi binh lửa, càng nên để ý thương dân, khoan hình nhẹ thuế, cùng dân đổi mới cả chính thể, như thế là căn bản để dựng nước, dân tình cảm mến đội ơn, là có thể đội được mệnh Trời về lâu về dài, tôi lúc mơ màng vẫn thấy quy-mô khí-tượng của quốc-vương hơn vượt người thường, nên sau khi trở về, bắt chước lệ người đời xưa mà tặng quốc-vương bằng những lời nói kể ở trên, không tự biết là nhàm tai…
Tháng 3 sang năm, chúng tôi đợi ở cửa Nam-quan, theo lúc đi đường, sẽ bàn rộng về tâm-tình, vậy xin viết qua mấy lời để tâu trở lại, mong đợi quốc-vương ngày đêm yên ổn.
Thư kể trên là quan sứ tuyên phong làm thành điển-lễ của phủ-đường họ Thành, họ Vương, cúi mình tâu dưới điện vua nước An-Nam.
Theo lời thơ, dường như hai quan sứ chẳng mảy may ngờ vực điều chi.
2.2. Chơn dung của vua Quang Trung
2.2.1. Công văn
Ta coi thêm một hồ sơ.2
Hạ thần là nước phiên nhỏ, tự nơi xa vào chầu, trông lên được Đại-hoàng-đế rũ lòng nhân từ, coi như cha con…
Hạ-thần tự nghĩ không lấy gì đáp lại được ân to một phần trong muôn phần.
Hạ thần muốn kêu xin một bức chân-dung của Đại-hoàng-đế, mang về hạ-quốc, kính cẩn cung phụng ở điện Kinh-thiên để lúc ấy lúc khác quỳ khấn, như thể ở được bên tả bên hữu đức Đại-hoàng-đế, cho phụ lòng luôn luôn quyến-luyến.
Chỉ sợ rằng phạm lỗi mờ quáng, chưa dám thiện tiện tâu lên nhà vua, vì thế giải bầy lòng uẩn-khúc, ở trước Tôn-đại-nhân xét định, nên chăng nhờ Đại-nhân chỉ giáo.
Mong mỏi không biết chừng nào.
2.2.2. Suy luận
Gần đây, có một vị giải thích những chữ ghi trên một bức tranh Tàu và ‘tin’ rằng bức tranh này vẽ hình ‘vua Quang Trung’ khi nhà vua dự lễ chúc thọ Thanh Cao Tông.[6] Tiếc thay, vị đó đã lầm, khi bỏ qua một việc cần làm, là so cái hình đó với hình của Thanh Cao Tông. Bởi nếu đem so hình đó với hình Thanh Cao Tông ở một bức tranh khác, thì ta sẽ nhận ra rằng hai cái hình đó đều là một người mà thôi (hình 1).
Hình 1. bên trái: ‘vua Quang Trung’, bên phải: Thanh Cao Tông, trích từ hình 2.
Vậy ta có thể tin rằng hình 1, bên trái và bên phải, đều là chơn dung của Thanh Cao Tông; bên trái là hình mà Thanh Cao Tông đã sai thợ vẽ để tặng cho vua Quang Trung theo lời vua ‘kêu xin’ ở công văn số 4 bên trên.
Còn chơn dung của đích thân vua Quang Trung, thì ai đoán sao cũng được (anybody’s guess).
Hình 2. Thanh Cao Tông, ở chính giữa.[7]
3. Thảo luận
Mục này cắt nghĩa mấy ý mà tới nay người-đọc-sử vẫn chưa rõ.
3.1. Tước-vị của vua Quang Trung
Ta coi thêm một hồ sơ.2
…Nước An-Nam vốn là phiên-thuộc, qua nhiều đời cho đến bây giờ đều đều được phong là tước vương, nay quốc-trưởng đã đem lòng thành, thân hành đến kinh-đô để chúc thọ, Đại-hoàng-đế đẹp lòng khen ngợi, hiện bản đường đã kính vâng dụ-chỉ: ‘Đến khi quốc-trưởng nước An-Nam vào chầu, nên phong làm thân-vương, so với thân-vương khác dù là tôn-thất hay ngoại-phiên cũng như nhau, mà thứ bậc ở trên những người tôn-thất hay ngoại-phiên là quận-vương.’ Thế là Đại-hoàng-đế không những phong hiệu cho, mà còn định trước về thứ bậc, vậy chỉ đợi ngày ban sắc mà thôi…
‘Phiên thuộc’ mà Phúc Khang An nói trên là gì?
Ta coi hình 3.
Hình 3 là cái ‘worldview’ của trào Thanh, theo đó Triều-Tiên, Lưu-Cầu và An-Nam nước ta đều là phiên-thuộc do bộ Lễ trào Thanh quản trị (nhóm D).
Hình 3. vẽ lại theo Wang.[8]
Vậy, theo công văn số 5 bên trên, ta hiểu Thanh Cao Tông phong cho vua Quang Trung hai tước-vị:
Mang danh hiệu ‘thân-vương’, vua Quang Trung sẽ được những ‘ơn huệ’ (privilege) thí dụ ngồi cùng bàn với những vị thân-vương thứ thiệt của trào Thanh, trong khi diễn ra lễ chúc thọ. Tất nhiên, khi đó, vua Quang Trung cũng bận y-phục trào Thanh, như một biểu-tượng của danh hiệu ‘thân-vương’—chớ chẳng phải trào Thanh bắt vua Quang Trung mặc y-phục đó để ‘làm nhục’ hay làm gì hết.
(Xin nhắc lại, ‘vua Quang Trung’ ở đây muốn nói Bùi Đắc Tuyên.)
3.2. Lễ ‘đem con vào bệ kiến’
Theo công văn số 3 bên trên, Thanh Cao Tông muốn tiếp vua Quang Trung với lễ ‘đem con vào bệ kiến’. Đây cũng là một cái ‘ơn huệ’ dành cho nhà vua với tước vị ‘thân-vương’ tạm thời. Muốn biết cái lễ đó là gì, ta cần tìm hiểu phong tục của người Mãn-châu (Manchurian), vì trào Thanh đều là người Mãn-châu.
Nói chuyện chào hỏi, thì người Mãn-châu có một cách mà thôi, cho các trường hợp này: (1) người thân, bạn bè xa/vắng lâu ngày không gặp, (2) khách tới thăm, (3) sứ giả nước ngoài. Đó là ôm nhau. Nhưng hãy để ý điều này. Người dưới/trẻ ôm người trên/già thì đặt bàn tay trái ở dưới lưng và bàn tay mặt ở giữa lưng người trên/già. Còn người trên/già thì trả lễ bằng cách đặt cả hai bàn tay ở giữa lưng người dưới/trẻ.[9]
Thanh Cao Tông muốn tiếp vua Quang Trung với lễ ‘đem con vào bệ kiến’, nghĩa là coi vua như người con lâu ngày không gặp. Vậy, khi vô chầu Thanh Cao Tông, vua Quang Trung ôm ông ta theo phong tục Mãn-châu đúng cách người dưới/trẻ ôm người trên/già, là được—chớ chẳng phải ‘ôm gối Thanh Cao Tông’ như dân gian đồn đại.
Chót hết, xin nhắc lại rằng trào Tây Sơn xài lịch Thời-hiến của trào Thanh.[10]
Đỗ Ngọc Giao
[1] Phạm Văn Sơn (1961) Việt sử tân biên.
[2] Đại Việt quốc thơ. ‘Đình Thụ’ Hoàng Văn Hòe dịch (1962).
[3] ‘Sơn Tùng’ Hoàng Thúc Trâm (1902–1977). Quốc văn đời Tây Sơn (1950).
[4] https://vanvn.vn/vu-khi-phot-pho-la-nguyen-nhan-cai-chet-cua-vua-quang-trung/
[5] Alfred Schreiner (1906) Abrégé de l'histoire d'Annam.
[6] Nguyễn Duy Chính. Đã tìm ra chân dung vua Quang Trung? Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) 2017.
[7] https://asia-archive.si.edu/learn/for-educators/teaching-china-with-the-smithsonian/explore-by-dynasty/qing-dynasty/#:~:text=The%20Qing%20dynasty,was%20weakened%20by%20internal%20rebellions.
[8] Yuanchong Wang (2018) Remaking the Chinese empire: Manchu-Korean relations, 1616–1911.
[9] A lady’s guide to Manchurian etiquette. https://www.shenyunperformingarts.org/explore/view/article/e/e_j1fOHg6-c/manchurian-ladies-lifestyle.html
[10] https://nghiencuulichsu.com/2025/01/21/nam-moi-song-xuan-noi-them-chuyen-lich/
Bình Luận Bài Viết