Kỳ 3
Sự kiện 2. Hà Nội- Mê Linh-Kinh đô của Trưng Nữ Vương (40-43)
Sau khi hoàn thành xâm lược, Triệu Đà đã thủ tiêu nền độc lập, sáp nhập Âu Lạc vào bản đồ Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận: Quận Giao Chỉ gồm toàn bộ miền Bắc đến Ninh Bình (ngày nay), quận Cửu Chân từ Thanh Hoá đến Quảng Bình. Đứng đầu quận là Quận sứ. Dưới quận nhà Triệu vẫn duy trì đơn vị hành chính cấp Bộ do Lạc tướng người Âu Lạc nắm giữ. Như vậy Hà Nội thời thuộc Triệu nằm trong quận Giao Chỉ.
Lễ hội Đền Hai Bà Trưng được tổ chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, mồng 6 là ngày chính hội. Nguồn: Internet.
Năm 202 Tcn Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ trong cuộc chiến tranh Hán-Sở, thống nhất Trung Quốc và lập ra nhà Hán bao gồm Tây Hán (202 Tcn-8 Scn) và Đông Hán (25-220 Scn). Năm 111 Tcn nước Nam Việt bị nhà Hán tiêu diệt, lãnh thổ Âu Lạc bị sáp nhập vào nhà Hán. Nhà Hán lập ra Bộ Giao Chỉ do Thứ sử người Hán đứng đầu bao gồm 9 quận, trong đó 3 quận thuộc đất Âu Lạc: Quận Giao Chỉ gồm toàn bộ miền Bắc đến Ninh Bình, Quận Cửu Chân gồm Thanh Hoá ngày nay, Quận Nhật Nam bao gồm Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Đứng đầu mỗi quận là một Thái thú ngươì Hán. Dưới quận là huyện đứng đầu là quan huyện ngườì Việt. Dưới huyện là công xã nông thôn đứng đầu là Bồ Chính người người Việt (Âu Lạc), dưới công xã nông thôn là làng bản do người Việt đứng đầu. Trụ sở của chính quyền cai trị đóng ở Luy Lâu (nay thuộc Thuận Thành Bắc Ninh). Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ.
Bọn thống trị phong kiến Trung Quốc ra sức bóc lột, cướp bóc kinh tế, du nhập quan hệ sản xuất phong kiến vào nước ta, ra sức đồng hoá văn hoá. Chúng du nhập chữ Hán, đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho và phong tục tập quán Trung Quốc vào Âu Lạc. Về khách quan đã làm cho kinh tế và xã hội Âu Lạc chuyển biến và bước vào xu hướng phong kiến hoá. Trên cơ sở đó giai cấp phong kiến Việt Nam ra đời và ngày càng lớn mạnh. Cùng với dân tộc họ mâu thuẫn gay gắt với phong kiến Trung Quốc nên họ đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc là cuộc khởi nghĩa bùng nổ năm 40 do Hai Bà Trưng lãnh đạo chống nhà Đông Hán. Hai Bà Trưng: chị là Trưng Trắc em là Trưng Nhị, dòng dõi bên ngoại Hùng Vương xưa, quê ở Mê Linh ( quận Mê Linh, Hà Nội ngày nay) đã phất cao lá cờ đại nghĩa, kêu gọi nhân dân vùng dậy trả thù nhà đền nợ nước. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà nhân dân khắp Âu Lạc nổi dậy tạo nên một làn sóng đồng khởi mãnh liệt như thác lũ, phá tan 65 thành trì. Quân ta nhanh chóng chiếm Luy Lâu, đầu não của chính quyền cai trị. Tên Thái thú Tô Định khét tiếng tàn bạo bỏ chạy về nước. Sau khi khởi nghĩa thắng lợi Hai Bà xây dựng một quốc gia độc lập, xây dựng một vương triều mới. Hai Bà xưng Vương, lấy Mê Linh làm kinh đô của đất nước. Lần thứ 2 vùng đất Hà Nội lại trở thành kinh đô. Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhân dân Hà Nội đã tham gia và đóng góp nhiều cho cuộc trung hưng dân tộc. Các đạo quân của Đô Tam Trinh ở Mai Động (nay thuộc Quận Hoàng Mai), của Nàng Tía ở Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Thanh Trì), của Công chúa Vinh Huy ở Vân Hà, của Đông Bảng ở Gia Lộc (nay thuộc huyện Đông Anh); của Công chúa Quốc Hương ở Kiêu Kỵ, của vợ chồng Đào Kỳ (nay thuộc xã Ngọc Thụỵ, Long Biên) và của ba anh em họ Đào ở Đa Tốn (nay thuộc huyện Gia lâm)[1].
Năm 43 vua Hán Quang Vũ nhà Đông Hán sai phục Ba tướng quân Mã Viện làm chủ soái, Lưu Long làm phó soái đem 20 vạn quân tràn vào nước ta. Hai Bà Trưng đem toàn bộ quân chủ lực lên đánh một trận quyết chiến với giặc ở Lãng Bạc (Thuộc Đông Triều-Bắc Ninh ngày nay). Quân ta thua trận, 1 vạn nghĩa quân hy sinh. Hai Bà Trưng lui quân về Cấm Khê (nay thuộc Thạch Thất, Hà Nội). Mã Viện đem quân truy kích, quân ta hy sinh thêm 2 vạn. Hai Bà nhảy xuống sông Hát (nơi đầu nguồn sông Đáy) tự vẫn. Sự kiện bi thảm này là ngày 6 tháng 3 năm 43 âm lịch. Sau ba năm độc lập nước ta lại rơi vào ách thống trị của nhà Đông Hán. Kinh đô Mê Linh bị giặc tàn phá. Đây là tai hoạ thứ hai của kinh đô thuộc vùng đất Hà Nội.
Sau cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng, nhà Đông Hán củng cố hơn nữa bộ máy hành chính, xiết chặt ách cai trị. Nhà Hán đổi Bộ Giao Chỉ thành Châu Giao Chỉ vẫn có 9 quận, đất Âu Lạc vẫn ba quận như xưa, cái mới là nhà Hán củng cố chia nhỏ cấp huyện, lập thêm huyện mới và cử người Hán xuống làm huyện lệnh (Quan huyện). Lưu ý rằng trong hơn 1000 năm thống trị các triều đại Phong kiến Trung Quốc dù cố gắng cũng chỉ nắm tới cấp huyện. Từ cấp Công xã nông thôn trở xuống vẫn do Bồ Chính người Việt đứng đầu. Đất Hà Nội khi đó trở thành trung tâm của một huyện mới thành lập: Huyện Tống Bình.
-----------------------------
[1] Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội . Lịch sử Hà Nội. NXB Hà Nội. 2004. Tr. 8.
(Còn nữa)