TRƯỞNG GIẢ
CHẤT ĐA LA HỌC PHẬT
ĐẠT KẾT QỦA
Toàn Không
Trưởng giả Chất đa La đã quy y Phật Pháp Tỳ Kheo và học Giáo lý do Phật giảng tại Tịnh Xá nơi rừng Am La. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn rồi, Cư sĩ Trưởng giả Chất Đa La thường hay đến chỗ các Tôn giả Tỳ Kheo ở Tịnh Xá Am La để thảo luận, và học hỏi Phật pháp. Các Tôn giả thường nói Pháp soi sáng và làm cho Trưởng giả hoan hỷ. Bài Trưởng giả Chất Đa La được trình bày trong 5 mục như sau:
MỤC 1: NGHĨA LÝ
BÀI KỆ CỦA PHẬT
Một hôm, Trưởng giả Chất Đa La đến phòng của Tôn giả Na Già Đạt Đa. Tôn giả bảo Trưởng giả nghe bài kệ của Đức Thế Tôn như sau:
Lấy trắng che cành xanh,
Xe chuyển nhờ cái trục,
Lià kết lại quán sát,
Đoạn lưu chẳng trói buộc.
Rồi hỏi Trưởng giả:
- Bài kệ này có nghĩa gì?
Trưởng giả Chất Đa La nói:
- Xin Tôn giả chờ một chút, tôi đang suy nghĩ nghĩa lý.
Sau một lúc suy nghĩ, Trưởng giả nói:
Cành xanh là Giới, Trắng là Giải thoát,
Lấy trắng che cành xanh là giữ giới để Giải thoát.
Xe là Chỉ Quán, Chuyển là phát sinh ra,
Cái trục là niệm thân, là ghi nhận những gì thuộc thân, và vận hành của thân.
Xe chuyển nhờ cái trục là do Thiền Chỉ Quán mà biết các bộ phận và vận hành của Thân.
Kết có 3 thứ kết là Tham, sân, si.
Quán sát là thấy rõ.
Lià kết lại quán sát là đã thấy rõ không còn tham, sân, si nữa
Lưu là ái nhiễm dính mắc. Đoạn lưu là trừ ô nhiễm ràng buộc.
Đoạn lưu chẳng trói buộc là ái dục đã diệt hết, nên được Giải thoát, không còn tái sinh ở đời vị lai.
Tóm lại, như vị Tỳ Kheo giữ Giới vẹn toàn để mong Giải thoát, kiên trì trừ bỏ tham lam, sân hận, si mê tà kiến. Dứt hết ô nhiễm ái dục dính mắc, tinh tấn Thiền Chỉ Quán, đã biết, đã dứt hết dục lậu tận cội gốc, không sinh trở lại nữa, đời vị lai thành bất sinh.
Tôn giả Na Già Đạt Đa hỏi Trưởng giả:
- Ông đã nghe ai giải nghĩa này rồi chăng?
Trưởng giả đáp:
Thưa, chưa được nghe ai nói.
Tôn giả nói:
- Này Trưởng giả, ông được lợi ích tốt lành trong Phật pháp sâu xa. Ông được vào tuệ nhãn của Hiền Thánh.
Trưởng giả Chất Đa La nghe Tôn giả Na Già Đạt Đa nói xong, hoan hỷ, vái chào rồi lui đi.
MỤC 2: THẾ NÀO LÀ HÀNH?
Một lần khác, Trưởng giả Chất đa La đến thăm Tôn giả Ca Ma, sau khi chào, Trưởng giả hỏi:
- Thưa Tôn giả, thế nào là hành, có mấy loại hành, và ý nghĩa của hành như thế nào?
Tôn giả Ca Ma đáp:
- Có ba loại hành là thân hành, khẩu hành, và ý hành. Hơi thở ra vào là thân hành, có giác (biết) có quán (thấy) gọi là khẩu hành, có tưởng (nhớ) có tư (nghĩ) gọi là ý hành, vì sao? MỘT LÀ THÂN HÀNH: Vì hơi thở ra vào là pháp của thân, do nơi thân, thuộc nơi thân, nương nơi thân chuyển, do đó hơi thở ra vào gọi là thân hành.
HAI LÀ KHẨU HÀNH: Vì có biết, có thấy nên miệng diễn tả nói năng ra, do đó có giác có quán gọi là khẩu hành.
BA LÀ Ý HÀNH: Vì Tư tưởng, suy nghĩ nương nơi tâm, thuộc nơi tâm chuyển, do đó tưởng, tư gọi là ý hành.
Trưởng giả lại hỏi:
- Người chết và người nhập Diệt Tận Định khác nhau ra sao?
Tôn giả trả lời:
- Người chết không còn cảm thọ và hơi ấm, các Căn hư hoại, Thân xác phân ly. Người Diệt Tận Định, còn hơi ấm, các Căn không hoại, Thân mạng quan hệ nhau, chẳng bỏ mạng sống, chỉ có thân, khẩu, ý hành dứt.
Trưởng giả nghe Tôn giả nói xong, hoan hỷ vái chào rồi rời đi.
MỤC 3: TÂM TAM MUỘI
Một ngày khác, Trưởng giả Chất đa La lại đến phòng của Tôn giả Na Già Đạt Đa chào và hỏi thăm sức khoẻ xong, Tôn giả nói với Trưởng giả rằng:
- Đức Phật nói: “Có vô lượng tâm tam muội, vô tướng tâm tam muội, vô sở hữu tâm tam muội, không tâm tam muội”, thế nào Trưởng giả, vì Pháp này có các thứ nghĩa nên có các thứ tên, hay chỉ một nghĩa có các thứ tên?
Sau khi suy nghĩ đắn đo, Trưởng giả trả lời Tôn giả Na già Đạt Đa như sau:
- Có Pháp gồm nhiều nghĩa, nhiều câu, nhiều thứ tên. Có Pháp chỉ có một nghĩa mà nhiều câu, nhiều thứ tên như sau:
THỨ NHẤT: Thế nào là Pháp có nhiều nghĩa, nhiều câu, nhiều thứ tên?
Đó là: Vô lượng Tâm Tam muội, Vô tướng Tâm Tam muội, Vô sở hữu Tâm Tam muội, và Không Tâm Tam muội được giải nghĩa như sau:
MỘT: Thế nào là Vô lượng Tâm Tam muội?
Tâm Tam muội là Tâm định.
Nghĩa là chuyên cần, chú ý vào một việc nhận thức trong tất cả ý thức và hiện tượng tâm lý, không nghĩ chuyện gì khác để Tâm an tịnh. Như Tâm cùng hợp với Từ, không oán, không ghét, tâm khoan dung rộng lớn, tu tập nhiều lần, trải khắp một phương. Cũng như thế phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, phương trên, phương dưới, tất cả thế gian, duyên trụ tất cả; đó gọi là Vô lượng Tâm Tam muội.
HAI: Thế nào là Vô tướng Tâm tam muội?
Nghĩa là đối với tất cả các hình tướng không nhớ, không nghĩ (là không dính mắc) trong hết thảy thời gian, tự thân tác chứng đầy đủ; đó gọi là Vô tướng Tâm Tam muội.
BA: Thế nào là Vô sở hữu Tâm Tam muội?
Nghĩa là vượt qua tất cả các thức, trụ nơi Tâm Vô sở hữu (là tâm trống rỗng); đó gọi là Vô sở hữu Tâm Tam muội.
BỐN: Thế nào là Không Tâm Tam muội?
Là quán sát như thật, thế gian là không, pháp thường trụ không biến đổi, là chẳng phải ngã, tức chẳng phải ta, chẳng phải ngã sở, tức chẳng phải cái của ta, đó gọi là Không Tâm Tam muội.
Tất cả bốn pháp nêu trên gồm nhiều nghĩa, nhiều câu, và nhiều tên.
THỨ HAI: Thế nào là Pháp chỉ có một nghĩa, mà có nhiều câu, nhiều tên?
Như tham lam là có tướng, sân hận là có tướng, si mê tà kiến là có tướng; không tranh giành là vô tướng. Tham, Sân, Si là sở hữu, là có cái ta, có cái của ta; không tranh giành là vô sở hữu, là không đối với tham, sân, si; không tranh giành là không đối với thường trụ, là không đối với phi ngã (là chẳng có cái ta), phi ngã sở (là chẳng có cái của ta). Đó là Pháp chỉ có một nghĩa mà có nhiều câu, nhiều tên vậy.
Sau khi nghe sự giải thích của Trưởng giả, Tôn giả Na già Đạt Đa hỏi:
- Trưởng giả vừa nói ý nghĩa ấy vì ông đã được nghe giải thích trước rồi chăng?
Trưởng giả đáp:
- Không, thưa Tôn giả, tôi chưa hề được nghe ai đã giải thích trước đây.
Tôn giả nói:
- Trưởng giả, ông được lợi ích lớn nơi Phật Pháp sâu xa, hiện tại ông được tuệ nhãn của bậc Hiền Thánh.
Trưởng giả nghe Tôn giả nói, hoan hỷ, vái chào, rồi rời đi.
MỤC 4: TRƯỞNG GIẢ CHỨNG
KIẾN THẦN THÔNG SIÊU VIỆT:
Một hôm, Trưởng giả mời các vị Tôn giả đến nhà thụ chay, sau khi thọ trai và nói Pháp xong, các Tôn giả ra về, Trưởng giả đi cùng các Tôn giả đến Tịnh xá. Trên đường đi, lúc ấy vào cuối mùa xuân đầu mùa hạ, trời nóng nực, đi đường rất khó chịu, có một Tôn giả nhỏ nhất trong các vị ấy tên là Ma ha Ca nói:
- Thưa các Tôn huynh, hôm nay qúa nóng nực, tôi muốn nổi mây và gió mát có được không?
Các Tôn giả nói:
- Hiền giả làm được như vậy thì tốt lắm.
Tôn giả Ma ha Ca liền nhập Tam Muội Như Chính Thụ, liền lúc đó mây nổi, mưa nhỏ như bụi, gió mát thổi đến làm cho mọi người cảm thấy dễ chịu. Khi mọi người về tới cửa Tịnh xá, Tôn giả Ma ha Ca hỏi:
- Thưa các Tôn huynh, việc làm gió mát này dừng lại được chưa?
Các Tôn giả đều đáp:
- Hãy ngừng đi, đủ rồi.
Lúc ấy Tôn giả Ma ha Ca liền dừng thần thông và trở về phòng của mình.
Trong khi đó Trưởng giả Chất đa La nghĩ rằng: “Vị Tỳ kheo nhỏ nhất ở đây mà còn có thần thông lớn như thế, huống chi là bậc khác”. Nghĩ như thế, Trưởng giả liền vái chào các Tôn giả, rồi đi theo Tôn giả Ma ha Ca vào phòng và nói:
- Thưa Tôn giả, tôi muốn được thấy Tôn giả biến hóa hiện Thần túc siêu việt.
Tôn giả Ma ha Ca nói:
- Trưởng giả, chớ nên thấy, sẽ sợ hãi.
Ba lần Trưởng giả yêu cầu, ba lần Tôn giả từ chối như thế, Trưởng giả lại năn nỉ yêu cầu lần thứ tư:
- Xin Tôn giả vui lòng thương xót, cho tôi xem Thần thông biến hóa.
- Thôi được, ông hãy ra ngoài lấy cỏ và củi khô gom lại một đống, rồi đem tấm vải trùm phủ lên, khi nào xong cho tôi hay.
Nói xong, Tôn giả lấy một tấm vải trao cho Trưởng giả; Trưởng giả y theo lời chỉ bảo, ra ngoài, gom cỏ củi khô xếp thành một đống, phủ vải lên trên, rồi đi vào phòng nói với Tôn giả:
- Thưa Tôn giả, tất cả củi cỏ đã được chuẩn bị xong, đúng như lời Tôn giả đã nói.
Tôn giả Ma ha Ca liền nhập định, sau một lúc, Tôn giả bảo Trưởng giả:
- Ông ra coi có gì xẩy ra cho đống cỏ củi không?
Nghe lời Tôn giả, Trưởng giả đi ra chỗ đống cỏ củi, một lúc, ông trở vào mang trả lại Tôn giả miếng vải và nói:
- Thưa Tôn giả, tôi đã nhìn thấy cỏ củi cháy mà miếng vải ở bên trên không cháy, thật là lạ, thật là kỳ đặc! Tại sao thế?
Tôn giả nói:
- Tôi đã dùng Hỏa Quang Tam Muội, xuyên qua khe cửa, ánh sáng đốt rụi cỏ củi, mà không cho đốt cháy tấm vải ở bên trên. Ông nên biết, Thần thông này do không buông lung làm gốc, việc này cùng với công đức khác, tất cả đều do không buông lung làm gốc mà thành.
MỤC 5: TRƯỞNG GIẢ CHẤT
ĐA LA SINH LÊN CÕI TRỜI:
Tới một ngày nọ, Trưởng giả Chất đa La đã lớn tuổi và bị yếu mệt, trong đêm khuya gần về sáng, có nhiều vị Trời đến bảo Trưởng giả:
- Này Trưởng giả, ông nên phát nguyện làm Chuyển luân Thánh Vương, sẽ tuỳ nguyện đắc qủa, vì ông có dư đủ công đức để sẽ là một vị Đại Vương ở đời sắp tới.
Trưởng giả trả lời Chư Thiên:
- Nếu làm Chuyển luân Thánh Vương, cũng vẫn có vô thường, biến dịch, và khổ, ý tôi không muốn làm Đại Vương.
Các vị Trời khuyên bảo Trưởng giả không thuận, nên biến mất, ngày hôm sau, Trưởng giả nói với quyến thuộc vây quanh:
- Đã có nhiều Chư Thiên đến đây nói với tôi: “Ông nên phát nguyện được làm Chuyển Luân Thánh Vương, sẽ tuỳ nguyện đắc qủa”, tôi đã trả lời chư Thiên là:
“Đại Thánh Vương cũng lại vô thường, biến dịch, khổ, nên tôi không muốn”.
Quyến thuộc hỏi Trưởng giả:
- Nay ông dụng tâm như thế nào?
Trưởng giả trả lời:
- Nay tôi tâm nguyện rằng: “Chỉ không còn thụ sinh vào bào thai nữa, chẳng thọ nhận khí huyết”, như Thế Tôn đã nói:
“Năm hạ phần kết sử (là năm trói buộc), Ta không thấy có ngã (ta), tự thấy chẳng một kết nào mà chẳng đoạn; như thế sẽ sinh lên cõi Trời một lần rồi nhập Niết Bàn, không còn tái sinh ở cõi nhân gian này nữa”.
Nói xong, Trưởng giả từ giường nằm ngồi dậy, ngồi kết già, giữ chính niệm, và nói kệ về hạnh bố thí cúng dàng được phúc báo sinh lên cõi Trời. Nói kệ xong, Trưởng giả liền qua đời, sinh đến cõi Trời Vô Phiền là cõi Tứ Thiền Trời Sắc giới. Trưởng giả tiếp tục tu và sẽ đạt quả A La Hán ở đó. , .