Theo kinh sách chép, xưa kia, các vị Tăng và Phật tử có nguyện vọng về đất Phật chiêm lễ thánh tích rất tha thiết. Cũng chính vì nguyện vọng này cho nên những vị thánh Tăng phát tâm đến miền thánh tích Tây Thiên của Phật Giáo Bắc Truyền ra đời, Trung Quốc có ngài Nghĩa Tịnh và Ngài Huyền Trang…
Việt Nam ta từ rất sớm cũng đã có rất nhiều vị thánh Tăng cũng đi về Thiên trúc hành lễ thánh tích, theo sách Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện của Ngài nghĩa Tịnh đời nhà Đường có chép: "... Ở Giao Châu (Việt Nam) cũng có các vị Pháp sư qua Tây Vực, như ngài Vận Kỳ Pháp sư, Ngài Mộc Xoa Đề Bà Pháp Sư, Ngài Khuy Xung Pháp Sư, Ngài Huệ Diễm Pháp sư... là những vị sư người Giao Châu đi đến Tây Vực cầu Pháp..." Và thời hiện đại Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng Thích Thiện Châu… là những bậc Danh Tăng của Việt Nam đi cầu Pháp cũng như lễ bái thánh tích nổi tiếng của Phật Giáo Việt Nam đương đại.
Trong sách Đại Phật Tự của Trịnh Chấn Phong chép về không khí triều sơn lễ thánh ở Đông Độ như: "Người dân quảy túi màu vàng đi triều sơn, người ốm yếu, già cả, phụ nữ, đến những thiếu nữ yểu điệu, những bác nông dân chất phát, ai nấy đều kiền thành mỗi bước mỗi cúi đầu, thậm chí có người mỗi bước một lạy, cứ như thế lạy đến đỉnh núi..."
Xem ra những tích trên chính là nguồn cội của Tam Bộ nhất bái vậy
Tam Bộ Nhất bái chính là một hạnh tu!
Tam bộ: nghĩa là sau 3 bước chân chính niệm là một lần đỉnh lễ 5 vóc sát đất. Đây là một phương cách để người Phật tử, phần nhiều là các vị xuất gia bày tỏ lòng tin sâu vào Tam Bảo hoặc quyết tâm theo đuổi một hạnh nguyện của mình, quan trọng hơn hết là ý chí rèn luyện lòng khiêm cung, nhẫn nại qua sự hành trì vô cùng khó khăn, vất vả, ngõ hầu giúp tiêu trừ nghiệp chướng, phát triển thiện căn, mang đến sự an lạc về thể chất và tinh thần.
HT.Tuyên Hóa từng nói: “Con đường tốt nhất để am tường các pháp là chịu đựng được những hạnh khó hành, làm những việc mà người khác không chịu làm, nhẫn những chuyện mà không ai nhẫn nổi, tất cả chỉ có vậy thôi!”. Đó là lời giáo huấn Ngài dành cho thầy Hoằng Do, vị đệ tử người Mỹ phát tâm hành hương tam bộ nhất bái từ San Francisco đến Seattle. Thật ngắn gọn, “chỉ có vậy thôi” nhưng bao hàm biết bao ý nghĩa!
Có thể ai đó sẽ cho rằng đây chỉ là một “trò ảo thuật quảng cáo” - như thầy Hoằng Do đã từng bị mai mỉa, nhưng với thầy thì: “Sự lễ lạy đối với chúng tôi lại là phương tiện của thiền định.
Phương pháp này dẫn đến sự tập trung tư tưởng hơn hết, vì nó không đòi hỏi suy nghĩ hay nói năng gì.
Những động tác chầm chậm nhẹ nhàng, lặp đi lặp lại mới chính là sự luyện tập trong hiểu biết, với chủ ý làm dừng lại những loạn tưởng trong tâm thức”.
(Theo Three Steps, One Bow - Nhật ký của 2 thầy Tỳ kheo người Mỹ).
Điều này cũng từng xảy ra với thầy Hằng Thật - người Mỹ, đệ tử của HT.Tuyên Hóa. Thầy Hằng Thật, một người lớn lên ở Ohio trong một gia đình đạo Tin Lành gốc Tô-Cách và Ái-Nhĩ-Lan, rồi đổi sang đạo Phật trong thập niên 60 khi học tại trường Đại học Berkely, đã suốt 6 năm mà không hề nói chuyện một lời. Thầy đã phát nguyện tịnh khẩu năm 1977 sau khi thọ giới Tỳ Kheo Đại thừa.
Vào thời gian đó, Thầy cũng bắt đầu một chuyến bái hương gian nan kéo dài 2 năm rưỡi từ Los Angeles đến Vạn Phật Thánh Thành ở Talamage, gần Ukiah cùng với một người bạn đồng tu. Suốt dọc đường, Thầy lạy phủ phục hay bái lạy trên đường, cứ ba bước một lạy.
Thầy kể rằng, khi đi lạy tam bộ nhất bái, nhiều lúc có người đến chửi mắng thầy một cách vô cớ. Khi xem kinh Hoa Nghiêm, thầy nhận ra đó là những tâm niệm xưa kia thầy đã lỡ tạo. Em gái của thầy đã từ thầy vì thầy xuất gia theo đạo Phật; nhưng hơn 20 năm sau, mẹ thầy đã phát tâm ăn chay trường, em gái thầy lại đến chùa giúp hướng dẫn đưa người vào Phật pháp! (Theo nhật ký With One Heart Bowing to the City of 10,000 Buddhas - Nhất tâm lễ bái Vạn Phật Thành).
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, hình thức “tam bộ nhất bái”, “nhất bộ nhất bái” hay “ngũ bộ nhất bái” không phải là một hình thức xa lạ trong lễ nghi phương Đông. Nếu trong cung đình, hình thức này biểu lộ sự quy kính, hàng phục thì trong tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, thể hiện sự cung kính, quy ngưỡng, nguyện cầu, xuất phát từ sự rung cảm sâu xa của người lễ lạy, và trở thành một trải nghiệm tâm linh, một pháp môn tu.
Ở Tây Tạng, chuyện Tam bộ nhất bái là một hạnh nguyện
Phần lớn người Tây Tạng vẫn mong muốn được hành hương đến thủ đô Lhasa. Rất nhiều trong số đó đã chọn hình thức Tam bộ nhất bái để thể hiện tâm thành kính đối với những vị Phật sống của họ, và cũng không ít người đã phải bỏ thân dọc hành trình khắt nghiệt ấy. Nhưng với họ, đó là một sự ra đi thanh thản và đầy ý nghĩa.
Tam bộ (đi ba bước) để ngũ thể (chân, tay, ngực, trán...) một lần chạm xuống đất (nhập địa) lạy một lạy - một nghi thức vái lạy chỉ có riêng của người Tạng từ xa xưa và vẫn được duy trì đến hiện tại, bất chấp những sự thay đổi của không gian, thời gian, thời cuộc.
Người Tây Tạng vẫn còn truyền tụng câu chuyện về một người cha đã bán hết đàn gia súc nhằm thực hiện ước nguyện hành hương “tam bộ nhất bái” về thánh địa Lhasa, nhưng ông đã kiệt sức và chết mất xác trên con đường núi cô quạnh. Chờ mãi không thấy cha về, người con khi lớn lên đã quyết tâm thực hiện ước nguyện của cha, “tam bộ nhất bái” trải qua bao đỉnh núi cao, qua bao thung lũng sâu của rặng Himalaya hùng vĩ để về đến được chùa Jokhang và dâng lên bàn thờ Phật lời khấn cầu hoàn thành sứ mạng đức tin thay người cha đã khuất.