Vào thời Đức Phật, không có cái gọi là Phật Giáo, vì đạo Phật chưa hình thành. Chỉ có giáo hội Tăng già tập hợp những người muốn tu tập theo con đường giải thoát dưới sự hướng dẫn của Đức Phật và chư Thánh Tăng, và một số Ni chúng được điều động bởi Thánh Ni Gotami.
Người cư sĩ đến với Đức Phật một cách rời rạc do duyên lành, không tạo thành giáo hội. Nhưng khi Đức Phật thuyết giảng, Ngài thường đề cập đến 4 thành phần coi như rường cột của Phật Giáo là Tăng sĩ, Ni chúng, Thiện nam và Tín nữ.
Đức Phật thường hay nhắc nhở tên họ của 21 vị cư sĩ nổi tiếng :
Trong số những vị nầy, theo bài kinh Đại Bát Niết Bàn, có những vị đã đắc quả Dự Lưu, quả Tư Đà Hàm hoặc Anahàm (như ông Kakudha, ông Subhadda và hơn 50 vị ở tại Nadita).
Không thấy nói tới những vị đắc Alahán, chắc là không có. Như vậy cũng đủ khích lệ cho chúng ta quá nhiều, người cư sĩ - nam hay nữ - đều có thể chứng đắc đạo quả trong Giáo Pháp của Đức Phật.
Trong lịch sử truyền bá của đạo Phật, có rất nhiều cư sĩ lỗi lạc : đầu tiên, phải kể tới Hoàng đế A Dục, không có ngài giờ đây chúng ta sẽ không biết Phật Giáo là gì. Nhờ 9 phái đoàn truyền giáo do ngài gởi đi khắp bốn phương mang theo Giáo Pháp của Đức Phật. Có một phái đoàn do 2 ngài Sona và Uttara đã tới vùng “đất vàng Suvannabhūmi”, tức vùng Đông Nam Á mà, theo sử liệu Trung Hoa, có một di tích bảo tháp Asoka được xây dựng tại Giao Châu, ở thành Nê Lê, hiện nay là Đồ Sơn, cách Hải Phòng 12Km.
Hai người Phật tử đầu tiên ở nước ta được sử sách còn ghi lại là Công chúa Tiên Dung, con vua Hùng Vương, và chồng là Chử Đồng Tử được nhà sư Phật Quang, người Ấn Độ, truyền pháp cho tại núi Quỳnh Viên, ngày nay có tên là Nam Giới Sơn (lịch sử PGVN, tập 1, Lê Mạnh Thát, 1999).
Nước ta cũng có một cư sĩ hộ pháp nổi tiếng là vua Trần Nhân Tôn, hai lần chiến thắng quân Mông Cổ, về sau đi tu trở thành đệ nhất tổ Thiền Phái Trúc Lâm ; có những vị thiền sư cư sĩ như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Nguyễn Trải, Huỳnh Phú Sổ…
Như vậy, thế nào là 1 cư sĩ ?
Người cư sĩ là người :
1. Đã qui y Phật, Pháp, Tăng và luôn luôn tin tưởng vào ân đức của 3 ngôi Tam-Bảo.
2. Nghiêm chỉnh thọ trì 5 giới.
Điều kiện thứ 3 dành cho những Phật tử hành đạo là nguyện dấn thân trên con đường tâm linh mà Đức Phật đã chỉ dạy là : làm lành, lánh dữ và thanh lọc tâm.
Người cư sĩ không hành đạo thì nhiều lắm, con số có thể lên tới 5.000.000 ở tại Pháp (theo Frédéric Lenoir trong “Bouddhisme en France” 1999) ; họ đi tới chùa vào những dịp lễ lớn như Tết, Vu Lan, Phật Đản, lễ cầu siêu, thất tuần cho thân nhân quá vãng.
Người cư sĩ hành đạo rất ít, khoảng 500.000 tại Pháp (theo sách đã dẫn) ; họ có thể không đi chùa vì cảm thấy không có chùa nào thích hợp hoặc không có thầy nào xứng đáng, nhưng họ vẫn hành đạo.
I - BỔN PHẬN CƯ SĨ ĐỐI VỚI TỰ THÂN
Con người có 3 chiều kích (dimensions) : Thể, Trí và Tâm.
Như vậy, bổn phận của con người đối với chính mình là phải trao dồi Thể lực, Trí lực và Tâm lực.
Ba cột trụ của sức khỏe con người là : giấc ngủ, sự dinh dưỡng và sự quân bình thân tâm.
Khi còn trẻ thì phải luyện tập thể lực.
Khi lớn tuổi, chúng ta phải gìn giữ và điều hoà khí lực ; khí lực là một dạng vi tế của năng lượng sinh học trong cơ thể con người.
Những người sống thọ, khoẻ mạnh, trí óc sáng suốt lâu bền là nhờ lúc trẻ có luyện tập thể lực. Khoa học đã chứng minh ích lợi của sự vận động cơ thể ở mọi lứa tuổi. Vấn để là phải duy trì và phục hồi khả năng sinh hoạt và điều kiện thể lực một cách điều đặn và thích ứng với mỗi lứa tuổi.
Những lợi ích của sự vận động cơ thể mà khoa học cho biết ở người trưởng thành và lớn tuổi (trên 64 tuổi) là :
Tổ chức Y Tế quốc tế khuyên một người lớn tuổi :
“Nên tập mỗi tuần 150 phút vận động thể lực với cường độ trung bình, hoặc 75 phút vận động thể lực với cường độ cao, hoặc phối hợp cả hai vận động trên”.
Điều nầy có thể cụ thể hoá bằng :
Khi xưa, Đức Phật không có đề cập tới luyện tập thể lực, nhưng Ngài và chư tăng mỗi ngày phải đi trì bình khất thực, có khi hàng chục cây số vào các làng mạc hay thị thành. Ngày nay, chư tăng ở trong chùa có người dọn sẵn cơm cho ăn, nên cơ thể trở nên yếu ớt, mất quân bình. Trong kinh điển ta thấy có đề cập đến một loại năng lượng của tâm (Tâm Mạng Quyền, Jīvitindriya), không có năng lượng nầy tâm sẽ chết, như một ngọn đèn không có điện để làm cháy sáng. Muốn nuôi dưỡng năng lượng nầy thì phải tập : thiền, khí công, Yoga hay Tai Chi.
Trong bài kinh “Hạnh Phúc” (Maṅgala Sutta), Đức Phật dạy : 1 trong 38 phúc lành cao thượng là phải “nghe nhiều, học rộng”. Ở một bài kinh khác, Đức Phật nói : “Muốn hạnh phúc trong đời sống hiện tại, con người phải thiện xảo trong nghề nghiệp của mình, có hiệu năng và nghị lực trong bất cứ nghề nào mình làm”. Dĩ nhiên đó phải là một nghề Chánh Nghiệp và Chánh Mạng, và muốn được hạnh phúc ở đời sau thì người cư sĩ phải mỡ mang trí tuệ dẫn đến sự diệt khổ, giải thoát.
Như vậy, người cư sĩ một mặt phải mỡ mang kiến thức nghề nghiệp để cải thiện đời sống vật chất, một mặt phải mỡ mang kiến thức Phật học để chuẩn bị cho sự giải thoát cuối cùng.
Kiến thức nầy bao gồm :
Như vậy, bổn phận của người cư sĩ đối với chính mình là phải rèn luyện Trí Văn, Trí Tư và Trí Tu, và phải dùng những phương pháp khoa học để rèn luyện về trí lực, cho dù đó là học hỏi kiến thức nghề nghiệp trong đời sống hay kiến thức Phật học để chuyển hoá tâm linh.
Tâm lực là sức mạnh của năng lực tâm thần.
Người Tây Phương - cũng như đa số chúng ta - hay nhầm lẫn giữa Tâm lực và Trí lực. Họ nghĩ rằng người nào có nhiều bằng cấp, nhiều hiểu biết là có nhiều sức mạnh tâm thần.
Trên thực tế, chúng ta thấy điều nầy không đúng : một giáo sư đại học, chuyên viên nổi tiếng thế giới về kinh tế, có khả năng trở thành Tổng Thống nước Pháp, chỉ trong phút chốc đã trở thành một tội đồ tình dục, chỉ vì tâm hồn yếu đuối không chiến thắng nổi cơn lửa dục tình.
Vậy thì Tâm lực là gì? là sức mạnh của con tâm khi hội đủ ba yếu tố: chú tâm (attention), giác tỉnh (vigilance) và an xả (sérénité).
Ba yếu tố nầy chỉ có được do sự luyện tập thiền Định, và sự luyện tập nầy chỉ thành công khi nào chúng trở thành một phản xạ của tâm linh. Khi phiền não (tham, sân, si) đến, 3 yếu tố nầy liền hội tụ lại để phá tan phiền não.
Thiếu chúng, tâm con người sẽ rơi vào trạng thái :
Hình ảnh một hành giả đang ngồi thiền để tự chiến đấu với bản thân, một văn nghệ sĩ đang sáng tác cho ta biểu tượng của một con tâm hùng mạnh.
Như vậy, người Phật tử, khi biết giá trị của sức mạnh tinh thần, hiểu ý nghĩa của sự quân bình thân tâm và lợi ích của các phương pháp thiền, thì tại sao không tự cống hiến cho mình như một bổn phận cao cả ?
II - BỔN PHẬN NGƯỜI CƯ SĨ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH
Chàng thanh niên Singālaka đã theo lời di chúc của cha, cứ mỗi buổi sáng thức dậy, tắm rửa sạch sẻ và thay quần áo chỉnh tề rồi lễ bái 6 phương : Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên và Dưới. Khi thấy vậy, Đức Phật dạy dỗ chàng Singālaka lễ bái như thế nào mới đúng theo Giáo Pháp của Ngài. Đối với Ngài, lễ bái không có nghĩa bái lạy mà là tôn trọng, gìn giữ mối quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái (Phương Đông), giữa vợ chồng (Phương Tây), giữa thầy trò (Phương Nam), giữa bạn bè quyến thuộc (Phương Bắc), giữa cư sĩ và tu sĩ (Phương Trên), giữa chủ nhân và tôi tớ (Phương Dưới).
Trong bổn phận của người cư sĩ đối với gia đình, chúng ta sẽ quan tâm đến sự quan hệ giữa cha mẹ và con cái và sự quan hệ giữa vợ và chồng.
Đối với Đức Phật, cha mẹ là bậc Tiên Thánh trong nhà :
Mẹ cha là đấng Phạm Thiên,
Là Thầy trước nhất, là Tiên ban đầu.
Nuôi con tóc đã bạc màu,
Suốt đời nào biết mong cầu vui riêng.
Đức Phật dạy 5 điều người con phải làm cho cha mẹ :
Ngày nào cha mẹ nuôi dưỡng mình thành người, ngày nay tuổi già sức yếu, cần đến mình thì mình kiếm chuyện làm ngơ. Một mẹ nuôi được 9 con, nhưng 9 con không nuôi nổi 1 mẹ già, lại còn sanh nạnh đổ thừa cho nhau. Hoặc nuôi trong tiếng nặng, tiếng nhẹ và còn kể công :
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày.
Cha mẹ cần mà đôi khi không nói, vì muốn tôn trọng cuộc sống riêng tư của con. Nhưng con cái, khi cảm nhận điều cha mẹ cần, là phải nên làm ngay. Sợ đến khi cha mẹ mất mình chưa kịp làm, thì sẽ ăn năn hối hận cả cuộc đời. Diễm phúc thay cho ai còn cha mẹ để phụng dưỡng.
Những gì làm hại cho thanh danh gia đình, không nên phạm tới, như : cờ bạc, rượu chè, hút sách, trai gái, lường gạt, hại người.
Còn truyền thống là những di sản văn hoá thể hiện qua phong tục, tập quán, thói quen, lối sống, cách ứng xử của một cộng đồng dân tộc đã được đánh giá, chọn lọc và thử thách với thời gian, để trở thành một hệ thống giá trị lưu truyền từ đời nầy sang đời khác. Vậy truyền thống của gia đình VN là chi ?
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
So sánh ngôn ngữ VN và ngôn ngữ các nước khác, chúng ta thấy vai vế trong gia đình người VN được qui định rõ ràng chính xác, không lẫn lộn giữa anh, chị, em, chú, bác, cô, dì, cậu, mợ, dượng… Mỗi người đều biết chỗ đứng của mình trong gia đình.
Chị ngã thì em nâng.
Quyền huynh thế phụ.
Sẩy cha còn chú, Sẩy mẹ bú dì.
Điều nầy được xác nhận bởi nhiều học giả trong những tác phẩm nghiên cứu của họ :
- Đào Duy, trong “Việt Nam văn hoá sử cương”.
- Trần Văn Giàu, trong “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc VN”.
- Quang Đạm, trong “Thử miêu tả bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa VN” (tạp chí ‘Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật’, 4/1986)
- Trần Độ. trong “Về bản sắc dân tộc của văn hoá VN” (id).
Không có dân tộc nào tôn trọng việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên như dân tộc VN, hơn cả người Tàu là một dân tộc có nhiều điểm chung trong nền văn hoá Á Châu.
Kiến trúc nhà xưa ở VN thì có 3 gian, 2 cháy : gian giữa dành trọn vẹn cho bàn thờ Ông Bà Tổ Tiên một cách uy nghiêm hảnh diện. Ra nước ngoài, những người còn giữ phong tục VN thì trong phòng khách thế nào cũng có một khoảng trang trọng dành cho bàn thờ Ông Bà. Phong tục thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên người VN đã thu phục Thiên Chúa Giáo La Mã đã phải thay đổi quan điểm thờ phượng của mình, Cộng đồng Vatican đã cho phép những người theo đạo Chúa được thờ cúng Ông Bà, làm chay làm giổ để được người VN chấp nhận mới có thể truyền đạo được.
Về phương diện nầy, người VN làm dư hơn những điều Phật dạy : chẳng những làm tang lễ trang trọng, mà còn cầu siêu trong 7 tuần và sau đó làm đám giổ hằng năm, đôi khi còn làm lễ mãn tang sau 3 năm.
Về điểm nầy, người VN cần học hỏi nhiều ở người Pháp, họ rất trân quí của cải ông bà để lại và ra sức gìn giữ di sản văn hoá dân tộc. Nhờ đó, văn hoá Pháp được toàn thế giới quí trọng và nước Pháp đoạt giải nhất về số khách du lịch đến thăm viếng. Rất buồn thay cho những gia đình có “cha làm thầy, con bán sách”, hay “cha theo lương, con theo đạo” vì ''theo đạo mới có gạo mà ăn'.'
Đối lại, cha mẹ cũng có 5 bổn phận đối với con cái :
1. Ngăn chặn con làm điều ác, tránh xa đường tà.
2. Khuyến khích con làm điều thiện.
3. Giáo dục con tốt đẹp, dạy dỗ chúng nghề nghiệp.
4. Dựng vợ gã chồng cho con một cách xứng đáng.
5. Phân chia tài sản một cách công bằng đúng lúc.
Về quan hệ vợ chồng, Đức Phật dạy : Người chồng phải có 5 bổn phận đối với vợ :
Đối lại, người vợ phải có 5 bổn phận đối với người chồng :
1. Phải coi sóc việc trong nhà.
2. Phải khéo tiếp đón bạn bè, thân thuộc của chồng.
3. Phải yêu thương trung thành với chồng.
4. Khéo gìn giữ tài sản của chồng.
5. Khôn khéo và nghị lực trong mọi công việc.
III - BỔN PHẬN NGƯỜI CƯ SĨ VỚI ĐẤT NƯỚC
Trước khi trở thành người Phật tử, con người đã là công dân của một Đất Nước, vì vậy phải có bổn phận đối với Đất Nước mình đang sinh sống.
“Đừng hỏi cộng đồng dân tộc phải làm gì cho ta,
mà phải tự hỏi ta đã làm gì cho cộng đồng dân tộc”.
Chúng ta thường hay hoài tưởng vể Đất Nước cội nguồn, với hoài niệm “cây có cội, nước có nguồn” ; nhưng liệu chúng ta có đủ khả năng, phương tiện, đủ hùng tâm, đại lực để tác động về một quê hương xa xăm ?
Người cư sĩ trí thức Việt Nam đã bỏ lở biết bao chuyến tàu lịch sử có thể đưa Đất Nước đến chỗ vinh quang. Cho đến giờ phút nầy, trải qua bao thế kỷ, tại sao người trí thức Việt Nam vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ, để đến nỗi Đất Nước vẫn còn lầm than lạc hậu ? Chúng ta :
Sau những trăn trở trên, tôi xin phác hoạ một vài bổn phận của người cư sĩ đối với Đất Nước, Dân tộc :
1. Bảo vệ tài sản thiên nhiên và môi sinh (bằng cách gia nhập những tổ chức quốc tế về bảo vệ sinh thái...).
2. Bảo vệ những di sản văn hoá Dân tộc và Nhân loại.
3. Bảo vệ con người khỏi sự bóc lột, cưỡng bức của bất cứ thế lực chính trị, kinh tế, hay bạo quyền Tôn Giáo nào.
4. Hổ trợ sự tranh đấu của các dân tộc thiếu Dân chủ, Tự do.
5. Chấn hưng tinh thần Đạo Đức, Tâm linh hoá con người đang đắm chìm trong vật chất trụy lạc.
6. Tạo một nhịp cầu Văn Hoá giữa hai dân tộc sở tại và nguồn gốc : viết sách báo, dịch sách báo, tổ chức hội thảo trong nước và ngoài nước. Đem cái hay của nước ngoài vào trong xứ và giới thiệu những cái hay của nước mình cho người ngoại quốc.
7. Làm một công dân sáng suốt, một quan sát viên tiền phong, để kịp thời báo động những đe dọa có thể làm hại đến quốc gia, dân tộc.
IV - BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI CƯ SĨ ĐỐI VỚI ĐẠO PHÁP
Lịch sử truyền bá của Phật Giáo đã trải qua những giai đoạn thăng trầm.
Phật Giáo thịnh hành khi được các triều đại vua chúa ủng hộ, khi tăng già hoà hợp, chuyên chú dạy dỗ và truyền bá đạo Phật cho đến tận hang cùng ngõ hẹp, khi được phật tử ủng hộ và gia tâm tu hành đứng đắn. Người phật tử phải có bổn phận đối với sự vong tồn của đạo pháp, phải ý thức những hiểm nguy của Tôn Giáo mình, để kịp thời ứng phó cho hiệu quả.
Phật Giáo suy tàn có thể từ 2 lý do : bên ngoài và bên trong.
Điều nầy không phải là một lo sợ tưởng tượng khi chúng ta đọc được gần đây bài “Kế hoạch cho ngày tàn của Phật Giáo” do Allen Carr viết, đăng trên Buddhist Channel, tác giả phân tích quyển sách “Peoples of the Buddhist world , Piquant Edition, Carlist, 2004” viết bởi Paul Hattaway, là một trong những người Thiên Chúa Giáo lãnh đạo cuộc tấn công Phật Giáo một cách qui mô và khoa học. Cuốn sách - dày 453 trang - cung cấp đầy đủ cho các nhà truyền giáo Thiên Chúa Giáo dữ kiện về 316 nhóm sắc tộc theo Phật Giáo ở Châu Á, sẽ là mồi ngon tương lai cho họ để cải đạo. Trong lời tựa, Hattaway viết : “Có làm Chúa thất vọng không khi ngày nay có trăm triệu phật tử đang đi vào địa ngục mà không được Phúc âm chứng nhận ? Có làm Đấng Cứu Thế thất vọng không khi hàng triệu người đang thờ cúng các thần tượng chết cứng thay vì Đức Chúa Cha vẽ vang trên trời ?”.
Thật vậy, Đức Phật phủ nhận vai trò tối cao của một Thượng Đế toàn năng có quyền quyết định trên số phận con người, sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Ngài đặt nhân bản và trí tuệ con người lên hàng đầu.
Lại nữa, khoa học hiện đại đã chứng minh những giáo điều của các Tôn Giáo ấy là sai. Chúa không sáng tạo thế giới trong 7 ngày, nhân loại không là hậu duệ của ông Adam và bà Eva, mà là sự chuyển hoá từ loài vật theo thuyết Tiến Hoá của Darwin. Cuối cùng, đức giáo hoàng Jean Paul II đã công khai chấp nhận thuyết nầy cách đây không bao lâu. Trước ánh sáng khoa học, bóng tối u ám của những giáo điều Thần giáo lùi dần, tín hữu của những Tôn Giáo nầy mất lòng tin, bỏ đạo hay cải đạo thành Phật tử. Theo báo Nouvel Observateur, thì hiện nay có tới 5 triệu người pháp theo Phật Giáo - Tôn Giáo thứ ba - theo sự ưa chuộng của người Pháp, với 200 chùa và trung tâm hành đạo (thống kê của UBF).
Xưa kia, đạo Bà-La-Môn đã đánh phá PG một cách tàn khốc, thâm độc, có hệ thống và toàn diện cho đến nỗi PG đã bị bứng gốc khỏi Ấn Độ, là nơi nó đã được sinh trưởng và phát triển một cách cao độ. Đây là 1 bài học mà người phật tử phải nghiên cứu, chiêm nghiệm, rút tỉa nếu muốn bảo vệ PG và truyền bá PG một cách sâu rộng, lâu dài, để đem lại lợi ích và an vui hạnh phúc cho nhân loại.
Tại sao Bà-La-môn đã thù hận PG đến thế ?
1. Giáo lý của Đức Phật đã phủ nhận vai trò sáng tạo vũ trụ của Trời Phạm Thiên (Brahma là 1 trong 3 ngôi Tam Bảo của Bà La Môn, ngoài Vishnu và Shiva). Đối với PG, trời Brahma cũng chỉ là 1 chúng sinh trong Tam giới, vẫn phải chịu chi phối của Luật Luân Hồi. Phạm thiên do hưỡng phước báo của thiền định nên được sanh vào cõi trời, muốn gì có nấy, sống lâu hơn nhiều loại trời khác, thỉnh thoảng thị hiện ở cõi người, thị oai nên loài người khiếp sợ cho là Đấng sáng thế. Nhưng từ khi gặp Đức Phật và chư vị thánh tăng, Phạm thiên đã hiểu rõ thân phận mình hơn, hết tự xưng là “Tối thượng, Toàn năng, Toàn trí, Chủ Tể, Thượng đế, Sáng thế, Sáng Tạo chủ, Đấng Hoàn Toàn, Đấng Bảo vệ, Kiểm soát, Cha đẻ của các chúng sinh đã sinh ra và sẽ sinh ra”. Chính Phạm thiên là vị đã thỉnh cầu Đức Phật hãy thuyết pháp cho loài người và Chư thiên, sau khi Ngài thành đạt đạo quả Chánh Đẳng Giác.
2. Đức Phật đã phủ nhận ý niệm về một linh hồn (Atman) bất biến, trường cửu, tồn tại trong mỗi con người sau khi chết. Cũng như ý niệm về một bản thể tuyệt đối Brahman : “cái do đó mọi vật sinh ra, cái nhờ đó mọi vật sống được và cái ở đó mọi vật trở về sau khi đã tiêu tan”. Giải thoát đối với đạo Bà La Môn là làm sao đưa Tiểu Ngã Atman hoà nhập với Đại Ngã tuyệt đối Brahman thông qua các quá trình tu tập thiền định và thực nghiệm tâm linh. Đối với PG, Tiểu Ngã hay Đại Ngã là những danh từ tục đế do con người tưởng tượng đặt ra, nó không diễn tả 1 thực tại chân đế nào cả ; tin vào đó con người rơi vào tà kiến “Thường chấp”.
3. Nhưng điều mà Bà La Môn Giáo thù ghét PG nhứt là Đức Phật đã lên án hệ thống phân biệt giai cấp một cách bất công và nhấn mạnh vào sự bình đẳng của con người. Xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đặt nền tảng trên sự phân chia 4 giai cấp :
Đức-Phật vạch trần luận điệu của Bà-La-Môn một cách mĩa mai : mọi người, mọi giai cấp đều sanh ra từ cửa mình người đàn bà, và cho rằng giá trị của con người đặt nền tảng trên hành động, khả năng nội tại (tâm thức), sự cố gắng không ngừng của mổi người để vương lên ; nó không do nguồn gốc nòi giống hay sự giúp đở của tha nhân hay thần linh nào cả.
Hai giai cấp Bà-La-Môn và Sát đế Lợi cấu kết với nhau để bảo vệ hệ thống giai cấp và gìn giữ những ưu quyền đặt lợi của họ :
- Nếu người nào chạm phải 1 tín đồ PG thì phải đi tắm để tẩy uế (luật Manu), người phật tử lở dẫm trên bóng người Bà La Môn sẽ bị phạt tội.
- Bước vào chùa PG là một tội lỗi, cần phải tắm để thanh trừ tội lỗi.
- Những tín đồ PG, nếu được thọ hưởng một bửa ăn cúng tế cho thần linh và tổ tiên, phải chịu một hình phạt : là 1 trăm Panas, giống như người Thủ Đà La.
Phật Giáo đã trở nên suy yếu cùng cực, kịp đến khi Hồi Giáo xâm chiếm Ấn Độ thì PG được ban cho 1 phát súng ân huệ cuối cùng.
Đến thế kỷ thứ 12, Hồi Giáo thôn tính cả Ấn độ, họ đã đốt phá chùa chiền và các trung tâm văn hoá học thuật thời ấy. Năm 1157, bộ tộc Hồi Giáo khác, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ do tướng Mohammad Bin Bakhtyan chỉ huy, đã giết trên 8.000 tu sĩ và 1.500 giáo sư lỗi lạc tại trường đại học Nalanda (gần thành phố Patna, thuộc bang Bihar ngày nay). Đốt cháy thư viện lớn nhất thế giới thời bấy giờ trong cả tháng trời. Đến năm 1235, Nalanda bị đánh giết một cách tàn khốc một lần nữa. Chỉ còn lại hơn 70 vị tăng sống sót phải trốn chạy sang Népal, Tây-Tạng và Miến-Điện.
Một lý do khác từ bên ngoài là các thế lực chính trị, thay vì ủng hộ Phật Giáo một cách chân thành, đã lợi dụng Phật Giáo gây chia rẽ, làm ung thối hủ hoá các tăng ni để dễ bề thống trị. Pháp nạn nầy đang diễn ra tại một vài nước trên thế giới hiện nay.
2. Lý do nội tại làm suy tàn Phật Giáo cũng rất nhiều :
Có những tăng sĩ cống cao ngã mạn, nghĩ rằng có thể thay thế Đức Phật, làm hơn Đức Phật, diễn giảng Phật Pháp theo ngã kiến riêng, điều chế cách hành đạo theo ý riêng của mình.
Vào thời Đức Phật, đã có Đề-Bà-Đạt-Đa đề nghị Đức Phật áp dụng 5 điều răn cấm của y cho toàn thể Tăng Già. Nhưng Đức Phật đã bác bỏ hoàn toàn, nên ông manh tâm giết hại Đức Phật để tiến chiếm ngôi vị giáo chủ.
Năm điều răn cấm của Đề Bà Đạt Đa :
Hiện nay, chúng ta vẫn còn những vị tăng như thế. Hãy xem những lời giảng huấn của một trong những vị tăng nầy : “Khổ Đế trong Tứ Diệu Đế thật quá nặng, cần phải quăng bỏ bên đường, trước nhất để bắt đầu nhập Đạo bằng một con đường mạnh khoẻ vui tươi thay vì con đường Đạo bệnh hoạn và ghê tởm”...
“Chúng ta ngang hàng với Phật vì chúng ta có Phật tánh trong ta, có khả năng tỉnh thức, có trí tuệ và từ bi”…
“Rất thoải mái mà biết rằng Phật chưa làm hết tất cả, Ngài chỉ làm những gì vừa sức Ngài và còn biết bao công việc để lại cho chúng ta, chúng ta có thể làm tốt hơn Phật”…
Đây là những đoạn trích dịch trong bài Pilgrimage to Plum Village (Yoga journal sept/oct/1997) của nữ văn sĩ Kristin Barendsen.
Những vị tăng nầy coi thường người Cư sĩ Phật tử, vì họ có tài thuyết phục một số Phật tử vô minh nhẹ dạ, nhắm mắt nghe lời : “thầy bảo sao mình biết vậy”, không cần suy nghĩ tìm hiểu, để bị lợi dụng khai thác lòng tin đối với Phật, Pháp, Tăng. Những vị tăng nầy nhầm lẫn và tự đồng hoá mình với Tăng Bảo trong ý nghĩa mà người Phật tử chân chánh thông hiểu. Họ nghĩ rằng khi Phật tử tinh tấn tới chùa là vì cá nhân họ. Nhưng trong tâm chân thành của người Phật tử là đến chùa vì Tam Bảo. Họ cúng tiền vào chùa, vào thùng phước sương, là để dâng cúng cho Tam Bảo, chớ không phải dâng riêng cho vị trụ trì. Nếu thầy nào xem đó là của riêng “lấy đạo tạo đời” thì sẽ mắc nợ trùng đầu vạn kiếp.
Ngoài những ‘con sâu làm sầu nồi canh’ nầy, Phật Giáo còn bị những pháp nạn khác là thiếu những bậc chân tu, đạo đức. Người Phật tử đến chùa cầu mong học hỏi giáo lý nhà Phật và học hỏi kinh nghiệm tu tập ở các thầy. Nhưng dường như các thầy có những bận rộn khác, nên không màng đến chuyện dạy dỗ Phật tử. Các thầy chỉ muốn Phật tử đến chùa đọc dăm ba bài kinh, bỏ tiền vào thùng phước-sương rồi đi về cho yên chuyện, vì thật ra dạy dỗ phải có bài bản, phải có chuẫn bị, mà Phật tử bây giờ đôi khi kiến thức Phật học còn vững hơn các thầy, họ tìm học hỏi trên mạng có đầy đủ Tam Tạng Kinh-Điển, trên sách vỡ Anh, Pháp, Đức viết bởi những học giả uyên thâm trên khắp thế giới. Sự truyền thừa tu học ở các Tăng-Sĩ Việt-Nam không vững-vàng, có rất ít vị được đào tạo tại các trường Đại Học Phật Giáo, rất hiếm vị có trình độ tu chứng cao. Vì thế cho nên Phật Giáo Tây Tạng đã được người Tây Phương ưa chuộng vì họ có những vị thầy được huấn luyện và truyền thừa rất kỹ càng.
Điều tệ hại hơn cả là các thầy không có giữ giới và cũng không biết sám hối !
Các thầy dạy phật tử giữ Ngủ Giới, Bát Giới. Nhưng chính các thầy không làm gương cho Phật tử. “Giới hạnh bất tròn, nhân thiên tuyệt lộ” các thầy cũng bất cần. Các thầy đi tu vì một hạnh nguyện cao cả, hay vì chén cơm manh áo ? Một trong những nguyên nhân quan trọng là sự buông thả và dể duôi trong đời sống đạo đức và tâm linh của tu sĩ Phật Giáo, Tăng cũng như Ni.
Nhà chùa không thoả mãn được nhu cầu tâm linh của Phật tử
Khi vào nhà thờ, chúng ta tìm thấy một không khí an lành, tĩnh lặng, thoảng bên tai có tiếng nhạc orgue văng vẳng từ xa như vọng lại từ thiên giới.
Vào chùa chỉ thấy lăng xăng ồn ào, hết trai tăng đến trai tục, ăn uống nhồm nhoàm, hết làm chay đến làm đám, cúng oải lem nhem, tụng kinh láp nháp.
Tại sao vào chùa phải ăn mới được ?
Tại sao không lấy thời giờ để giảng đạo cho quần chúng ?
Tôi nghĩ phải sáng tạo lại nghi lễ cho trang nghiêm, cho thâm trầm, cho cảm hoá được lòng người.
Một trong những nguyên nhân làm suy yếu Phật Giáo là sự phân hoá, chia rẽ giữa các Thừa : Đại Thừa, Tiểu Thừa, Kim cang Thừa. Rồi trong nội bộ các Thừa, còn phân chia thành Tông : Thiền Tông, Tịnh độ Tông, Mật Tông. Rồi trong mỗi Tông, còn phân chia thành phái : phái Tổ sư thiền, phái Như Lai thiền, phái mũ vàng, mũ đỏ, mũ nâu, v.v...
Phải chăng sự phân hoá là đặc điểm của nhân tính, là số phận của con người, bị lệ thuộc bởi hình tướng, bị chi phối bởi nhân duyên ? Có chăng một con đường duy nhất, đi xuyên thấu các Thừa, để chỉ được gọi một tên duy nhất là Phật Thừa ?
Xu hướng của con người hiện đại là chạy theo những thú vui vật chất để thụ hưởng những khoái cảm qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ; hoặc chạy theo những trò chơi thể thao vừa lành mạnh vừa lợi ích cho bản thân, thay vì đi nhà thờ hay đi chùa nghe giảng lóp bóp vài bài kinh mà lợi ích thực tiển chưa thấy đâu, người ta bỏ mặc chùa, nhà thờ cho Giáo hội, cho những người quan tâm tới tinh thần, tâm linh… Người ta chỉ tới với Tôn Giáo khi nào bị tai nạn, tang tóc, thất cơ, lỡ vận, để tìm chút an ủi cho tinh thần. Con người thời nay, theo lời tác giả Mật Nghiêm, bị tiêu chuẩn hóa bằng tiền bạc, bị điện toán hoá đầu óc và bị máy móc hoá đời sống (Phật Giáo trong thời đại chúng ta).
Một lý do sâu xa, có thể khởi nguồn từ trước phong trào Đại thừa, là sự mất quân bình giữa hai khuynh hướng tu tập là xuất thế và nhập thế, Phật Giáo Nguyên Thủy quá đặc nặng trên sự tu chứng, trên sự đào sâu nghiên cứu kinh điển, mà quên mất vai trò đối với quần chúng phật tử ; Phật Giáo Đại thừa lại đặc nặng trên công tác cứu độ tất cả mọi chúng sinh, mà quên việc tu tập cho chính mình. ‘Mình lội không giỏi làm sao cứu được người đang chết đuối’. Chúng ta không thông hiểu bài học của Đức Phật : 3 tháng Trường Hạ của chư Tăng là để quí vị xuất thế tu tập, 9 tháng còn lại là để quí vị nhập thế độ đời.
Một lý do khác cho sự suy vong của Đạo Phật là các Tăng, Ni, Phật tử không hành đạo một cách tinh tấn, chân thành : mỗi người không thấy rõ vai trò và bổn phận của mình, Phật tử đến chùa chỉ mong được chư tăng trao truyền kiến thức Phật học hoặc hướng dẫn những kinh nghiệm tu tập của mình, nhưng chỉ thấy hướng dẫn vào những điều mê tín dị đoan (cúng sao giải hạn, bói toán xin xâm, trừ ma ếm quỉ, cầu cạnh thần quyền tha lực), những trò nầy không có ích lợi tý nào cho phần tâm linh.
Từ những lý do trên, chúng ta đi đến những trăn trở về bổn phận của người Phật tử tại gia đối với Đạo Pháp :
để Phật Giáo có thể đảm nhận vai trò của mình trong một thế giới đầy bạo lực cường quyền, đầy bất công kinh tế xã hội, đầy cực đoan và bất dung Tôn Giáo, trong đó môi trường sinh thái bị thoái hoá trầm trọng.
Đức Phật, trước khi mất, đã phó thác cho Cư Sĩ (cũng như cho Tăng và Ni), trong bài Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh, số 16) như sau : “Nay những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy cho các người, các người phải khéo học hỏi, tu tập, thực chứng và truyền bá rộng rãi, để cho Giáo Pháp nầy được vĩnh cửu, trường tồn lâu dài vì lợi ích, vì hạnh phúc của nhiều người, vì lòng bi mẫn với đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc và an lạc cho thiên giới và nhân loại”.
Trong bài kinh “Người Cư Sĩ gương mẫu” (Tăng chi bộ VIII, 26), Đức Phật diễn tả thế nào là 1 cư sĩ biết vun trồng sự lợi ích cho mình và cho người : “khi nào người cư sĩ đã thành tựu Đức tin, khích lệ người khác thành tựu Đức tin ; khi nào người cư sĩ có giữ giới và biết bố thí, khích lệ người khác giữ giới và bố thí ; khi nào người cư sĩ đi tìm gặp chư tăng để nghe được Diệu Pháp và khích lệ người khác tìm gặp chư tăng để nghe được Diệu Pháp ; khi nào người cư sĩ hiểu rõ ý nghĩa các Pháp, biết thực hành đúng các Pháp rồi khích lệ người khác cùng hiểu rõ ý nghĩa và thực hành đúng các Pháp. Cho đến như vậy, này Jivaka, là người cư sĩ biết vun trồng sự lợi ích cho mình và cho người”.
Đó là người cư sĩ gương mẫu vậy.
-------------------------
THƯ MỤC