阿 毗 達 磨 俱 舍 論
ABHIDHARMAKOŚABHĀṢAYĀM - q.3.
Nguyên tác: Thế Thân
Hán dịch: Huyền Trang
Việt dịch: Thích Phước Viên
PHẨM II: PHÂN BIỆTCĂN[1] 1
TIẾT I : 22 CĂN
Như vậy, nhân nói về 18 giới, đã nêu lên 22 căn; trong đó, căn có nghĩa là gì?
Tối thắng, tự tại, quang hiển[2] gọi là căn; do ba tính chất nầy tạo thành nghĩa tăng thượng của căn.
Với nghĩa tăng thượng, căn nào có công năng đối với những vấn đề nào[3]?
1. Hữu Bộ.
Văn Tụng.
Hán.
T29n1558_p0013b14║ 傳說五於四 四根於二種
T29n1558_p0013b15║ 五八染淨中 各別為增上
Âm Hán.
Truyền thuyết ngũ ư tứ Tứ căn ư nhị chủng
Ngũ bát nhiễm tịnh trung Các biệt vi tăng thượng.
Việt dịch.
Truyền thuyết[4], năm căn đối với bốn
Bốn căn đối với hai.
Năm, tám, trong nhiễm tịnh
Mỗi mỗi đều tăng thượng[5] /1/.
Luận giải thích.
/1a/ Truyền thuyết, năm căn đối với bốn.
Năm căn mắt, tai v.v..., mỗi một căn, trong bốn khía cạnh, có khả năng tăng thượng: một, trang nghiêm thân; hai, đạo dưỡng thân; ba, sanh thức; bốn, bất cọng sự.
Một, trang nghiêm thân: hai căn mắt, tai trang nghiêm thân nghĩa là, nếu mắt mù, tai điếc thì thân hình trở nên xấu xí.
Hai, đạo dưỡng thân: nhờ sự thấy nghe mà tránh được tai nạn nguy hiểm.
Ba, sanh thức: hai căn nầy là sở y, phát sinh hai thức tương ứng và các tâm sở.
Bốn, bất cọng sự: chỉ có mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mỗi mỗi đều riêng biệt.
Ba căn mũi, lưỡi, thân: về trang nghiêm thân cũng giống như mắt, tai. Đạo dưỡng thân: có khả năng nạp thọ các loại thực phẩm có tính đoạn thực. Sanh thức: phát sanh ba thức mũi, lưỡi, thân và các tâm sở; bất cọng sự nghĩa là, chỉ có mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân giác xúc.
/1b/ Bốn căn đối với hai.
Bốn căn: nữ căn, nam căn, mạng căn và ý căn. Mỗi một căn nầy, đối với hai vấn đề, có khả năng tăng thượng. Trong đó, hai căn nữ nam tăng thượng trong hai khía cạnh: một, khác nhau về giới tính; hai, khác nhau về hình tướng. Khác nhau về giới tính,[6] đó là, do hai căn nầy khiến có sự khác nhau về chủng loại nam nữ hữu tình. Khác nhau về hình tướng,[7] đó là, cũng do hai căn nầy tạo nên sự sai khác về tiếng nói, hình dáng, và vú nhỏ vú lớn, v.v...
Một quan điểm khác (Kinh Lượng bộ):
Nữ căn, nam căn, đối với hai pháp nhiễm, tịnh, có khả năng tăng thượng cho nên nói là hai. Lý do vì sao? Bởi lẽ, những người thuộc hạng phiến đề, bán trạch hay nhị hình hoặc do bản tánh hoặc do tổn hoại[8] đều không thể tạo tác các pháp tạp nhiễm[9] như bất luật nghi[10], vô gián, đoạn thiện căn, cũng như không thành tựu các pháp thanh tịnh[11]như luật nghi[12], đắc quả[13], ly nhiễm[14].
Mạng căn có hai nghĩa là đối với chúng đồng phần[15]có khả năng tăng thượng trong hai khía cạnh là giữ gìn[16] và làm tương tục[17] .
Ý căn có khả năng tăng thượng trong hai khía cạnh là tiếp nối đời sau[18] và tự tại tuỳ hành.[19] Tiếp nối đời sau, như Khế kinh nói: đó là lúc, kiền đạt phược,[20] ở trong tâm, tuỳ thuộc vào (tương ưng với) một tính chất mà hiện tiền[21] (thành sanh hữu), nghĩa là, hoặc cùng với ái, hoặc cùng với nhuế v.v...
Tự tại tùy hành, như Khế kinh nói:
Tâm có khả năng dẫn dắt thế gian,
Tâm nhiếp thâu tất cả các thọ.
Như vậy, tâm là một pháp
có khả năng tự tại tuỳ hành.
/1cd/ Năm, tám trong nhiễm, tịnh; mỗi mỗi đều tăng thượng:
Năm tức năm thọ căn (vedanendriya), lạc v.v... và tám tức tám căn vô lậu, tín, tấn v.v..., đối với các pháp nhiễm tịnh, theo thứ tự, có khả năng tăng thượng. Năm thọ căn lạc v.v... tăng thượng cho các pháp nhiễm ô, nghĩa là, chúng là nơi các phiền não tham, sân v.v... tăng trưởng. Tám căn tín v.v... tăng thượng cho các pháp thanh tịnh, nghĩa là, các pháp thanh tịnh theo đó mà sanh trưởng.
Có Luận sư khác nói: các căn lạc v.v... cũng có khả năng tăng thượng cho các pháp thanh tịnh. Như Khế kinh nói: do lạc (sukha) cho nên tâm định; khổ (duḥkha) là yếu tố phát sinh tín. Và y chỉ của xuất ly (giải thoát) chính là hỷ, ưu, xả.
Trên đây là những điều được nói bởi của các Luận sư Tỳ-bà-sa.
2.Kinh Lượng Bộ
Văn Tụng.
Hán:
T29n1560-p0312a08 : 了 自 境 增 上 總 立 於 六 根
T29n1560-p0312a09 : 從 身 立 二 根 男 女 性 增 上
Âm Hán:
Liễu tự cảnh tăng thượng Tổng lập ư lục căn
Tùng thân lập nhị căn Nam nữ tánh tăng thượng[22]
Việt Dịch:
Tăng thượng liễu tự cảnh Lập tất cả sáu căn
Từ thân lập hai căn Tăng thượng tánh nam nữ /2/
Luận giải thích:
Các Luận sư khác[23] nói, đạo dưỡng thân chẳng phải là công năng của mắt, tai mà đó là công năng tăng thượng (ādhipatya) của thức; chính do thức liễu biệt mới có khả năng tránh được các hiểm nạn, thọ dụng các thức ăn. Các công năng thấy sắc v.v... cũng chẳng phải là của cái gì khác ngoài thức. Cho nên, yếu tố bất cọng sự[24] đối với các căn mắt, tai v.v... không thể lập thành một tác dụng tăng thượng riêng. Do vậy, không thể căn cứ vào đó mà nói rằng, mắt, tai v.v... là căn.
Nếu vậy thì thế nào[25]?
/2ab/ Tăng thượng liễu tự cảnh, lập tất cả sáu căn: Liễu tự cảnh là sáu thức thân. Năm căn mắt, tai, v.v... đối với các thức liễu biệt cảnh riêng biệt[26], có tác dụng tăng thượng; đệ lục ý căn (mana-indriya) đối với thức liễu biệt tất cả cảnh[27], có tác dụng tăng thượng. Cho nên, sáu cơ quan mắt, tai, v.v... đều được lập làm căn.
Ngoại nạn: Màu sắc, âm thanh, v.v... đối với các thức năng liễu biệt cũng có tác dụng tăng thượng, lẽ ra nên lập làm căn?
Nói tăng thượng có nghĩa là tối thắng tự tại.[28] Căn con mắt đối với việc phát khởi nhãn thức[29] là tối thắng tự tại cho nên gọi là tăng thượng; nó là nhơn chung cho các thức liễu sắc[30] và thức tùy thuộc vào[31] căn mà có sự sáng (paṭu) tối (maṇḍa) khác nhau. Sắc thì không như vậy; hai bên trái ngược nhau. Cho đến ý căn cũng như vậy.
/2cd/ Từ thân lập hai căn; tăng thượng tánh nữ nam: từ thân (kāyendriya) lại lập hai căn nữ và nam, bởi lẽ đối với tính nữ, tính nam, chúng có tác dụng tăng thượng. Thể của hai căn nữ nam không tách rời khỏi thân căn; từ một phần của thân, lập nên tên gọi nầy.Theo thứ tự, đối với thân nữ thân nam, hai căn nầy có tác dụng tăng thượng. Vì chúng hơi khác với các phần khác của thân nên lập riêng thành hai căn. Những loại hình tướng, âm thanh, nghề nghiệp, chí hướng và sự ưa thích thuộc phái nữ, gọi là tính nữ (strībhāva). Những loại hình tướng, âm thanh, nghề nghiệp, chí hướng (abhiprāya) và sự ưa thích, thuộc phái nam, gọi là tính nam. Sự khác nhau về phái tính nầy là do hai căn nữ nam, nên nói rằng hai căn nữ nam có công năng tăng thượng đối với hai loại phái tính.
Văn Tụng.
Hán:
T29n1560-p0312a10 : 於 同 住 雜 染 清 淨 增 上 故
T29n1560-p0312a11 : 應 知 命 五 受 信 等 立 為 根
Âm Hán:
Ư đồng trú tạp nhiễm Thanh tịnh tăng thượng cố
Ưng tri mạng ngũ thọ Tín đẳng lập vi căn[32]
Việt dịch:
Tăng thượng sự tồn tại, Tạp nhiễm và thanh tịnh
Nên biết, mạng, năm thọ, Tín, v.v... lập làm căn /3/.
Luận giải thích:
/3a/.Tăng thượng sự tồn tại : mạng căn có công năng tăng thượng đối với sự tồn tại[33] (trú) của chúng đồng phần.
/3b/. Tạp nhiễm : năm thọ căn lạc, v.v... có công năng tăng thượng đối với các pháp tạp nhiễm.Vì sao biết được? vì Khế kinh nói: ở trong lạc thọ, tính tham theo đó tăng trưởng; ở trong khổ thọ, tính sân tăng trưởng; trong không khổ không lạc thọ, vô minh (avidyā) tăng trưởng.
/3b/. và thanh tịnh: năm căn: tín, v.v... có công năng làm tăng trưởng các pháp thanh tịnh. Vì sao như vậy? Bởi do thế lực các căn nầy có khả năng điều phục các thứ phiền não, dẫn sanh thánh đạo.
/3cd/. Nên biết, mạng, năm thọ, tín, v.v... lập làm căn : nói “nên biết” ý khuyên nên chấp nhận tất cả đều là căn.
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312a12 : 未 當 知 已 知 具 知 根 亦 爾
T29n1560-p0312a13 於 得 後 後 道 涅 槃 等 增 上
Âm Hán:
Vị đương tri dĩ tri Cụ tri căn diệc nhĩ
Ư đắc hậu hậu đạo Niết bàn đẳng tăng thượng.[34]
Việt dịch:
Căn vị đương tri, dĩ tri, Và cụ tri cũng vậy
Tăng thượng hậu hậu đạo Và niết bàn vân vân /4/.
Luận giải thích:
Ba căn vô lậu có công năng tăng thượng đối với hậu hậu đạo[35], niết bàn v.v...
Nói “cũng vậy” tức theo đó suy ra để thấy tất cả đều là căn.
/4a/.Căn vị đương tri : căn vị tri đương tri[36] có công năng tăng thượng trong việc chứng đắc dĩ tri căn đạo.
/4a/. dĩ tri : căn dĩ tri có công năng tăng thượng đối với việc chứng đắc cụ tri căn đạo.
/4bcd/. Và cụ tri cũng vậy, tăng thượng hậu hậu đạo và niết bàn vân vân : căn cụ tri có công năng tăng thượng đối với việc chứng đắc niết bàn. Tâm chưa giải thoát không thể chứng bát-niết-bàn.
Chữ “vân vân” chỉ cho các giải thích khác.
Cách giải thích khác là gì? Đó là, trong việc đoạn trừ các phiền não của giai đoạn kiến đạo, căn vị tri đương tri có công năng tăng thượng. Trong việc đoạn trừ các phiền não của giai đoạn tu đạo, căn dĩ tri có công năng tăng thượng. Trong hiện pháp lạc trú[37], căn cụ tri có công năng tăng thượng; do căn cụ tri nầy mà cảm nhận được những hỷ, lạc ở trong thân giải thoát.
a. Nếu với nghĩa tăng thượng mà lập làm căn thì, các phẩm loại như vô minh, v.v..., lẽ ra cũng nên lập làm căn. Bởi vì, vô minh, v.v... là nhơn của các quả hành, v.v..., mỗi một thứ đều có công năng tăng thượng[38].
b. Lại nữa, ngữ cụ v.v... nên lập làm căn. Bởi lẽ, ngữ cụ, tay chân, đại tiểu tiện xứ, theo thứ tự, chúng có công năng tăng thượng đối với lời nói, việc cầm nắm, đi đứng, tống khứ, lạc thú[39].
c.Hữu Bộ trả lời: tất cả các thứ đó đều không thể lập làm căn.[40] Bởi lẽ, đã chấp nhận rằng, căn có tướng như vậy:
Văn Tụng.
Hán:
T29n1560-p0312a14 : 心 所 依 此 別 此 住 此 雜 染
T29n1560-p0312a15 : 此 資 糧 此 淨 由 此 量 立 根
Âm Hán:
Tâm sở y thử biệt Thử trú thử tạp nhiễm
Thử tư lương thử tịnh Do thử lượng lập căn [41]
Việt dịch:
Sở y của tâm, nó khác nó tồn tại, nó tạp nhiễm
Tư lương của nó, nó tịnh với số lượng nầy lập căn/5/.
Luận giải thích:
Sở y[42] của tâm là sáu căn mắt, v.v...; sáu nội xứ nầy là những yếu tố căn bản tạo nên hữu tình[43]; tướng trạng khác nhau của sáu nội xứ, do hai căn nữ nam tạo nên. Nó* tồn tại trong một thời gian, do mạng căn. Nó* thành tạp nhiễm, do năm thọ căn. Tư lương thanh tịnh[44] của nó* là năm căn tín v.v... Nó*[45] trở thành thanh tịnh[46], do ba căn sau. Do những yếu tố trên, việc lập căn đã được ổn định. Đồng thời, không nên chấp nhận vô minh, v.v... và ngữ cụ, v.v..., được lập làm căn. Bởi lẽ, trong đó, chúng không có công năng tăng thượng.
Lại có các Luận sư khác [47] nói về tướng của căn rằng,
Văn Tụng.
Hán:
T29n1560-p0312a16 : 或 流 轉 所 依 及 生 住 受 用
T29n1560-p0312a17 : 見 立 前 十 四 還 滅 後 亦 然
Âm Hán:
Hoặc lưu chuyển sở y Cập sanh trú thọ dụng
Kiến lập tiền thập tứ Hoàn diệt hậu diệc nhiên.[48]
Việt dịch:
Hoặc sở y của lưu chuyển Và sanh, trú, thọ dụng
Lập mười bốn căn đầu. Hoàn diệt sau, cũng vậy/6/.
Luận giải thích:
Chữ “hoặc” được dùng để chỉ cho thấy đây là quan điểm của các Luận sư khác; đó là, căn cứ vào lưu chuyển và hoàn diệt mà thành lập 22 căn.
Sở y của lưu chuyển[49] là sáu căn mắt, v.v.... Sự sinh thành của sáu căn do hai căn nữ nam. Tồn tại do mạng căn dựa vào đây mà tồn tại. Thọ dụng do dựa vào năm thọ thân vì chúng có sự cảm nghiệm. Căn cứ vào đây, thành lập 14 căn đầu.
Trong hoàn diệt[50] vị, cũng căn cứ vào sự khác nhau của bốn nghĩa nầy, lập thành 8 căn sau:
Sở y của hoàn diệt là năm căn tín, tấn, niệm, định[51], huệ. Trong ba vô lậu, do sơ vô lậu căn nên niết-bàn sanh khởi; do vô lậu căn kế tiếp mà an trụ; do vô lậu căn cuối cùng nên niết bàn được thọ dụng (hiện pháp lạc trú).
Số lượng của các căn, do bốn nghĩa nầy mà thành lập, không thêm không bớt. Tức do nhơn duyên bốn nghĩa nơi lưu chuyển, hoàn diệt, nên trong Kinh đã thành lập 22 căn theo thứ tự.
*Bác bỏ các quan điểm khác
Ngữ cụ (lưỡi) không thể là căn (tăng thượng) của ngôn ngữ (vāc). Bởi lẽ, phải đợi có sự học hành, ngôn ngữ mới thành tựu.[52]
Tay (pāṇi), chân (pāda) không thể là căn (tăng thượng) của sự cầm nắm, đi đứng, vì chúng không có tính chất nào khác; nghĩa là chính tay chân khi phát sinh ở vị trí vị trí khác, bằng hình thức khác gọi đó là cầm nắm, hay bước đi. Hơn nữa, không cần đến tay chân vẫn có sự cầm nắm, đi đứng; chẳng hạn như các loài bò sát. Cho nên, không thể lấy tay chân lập làm căn cho việc cầm nắm, đi đứng được.
Đại tiện xứ (pāyu) không thể lập làm căn cho việc tống khứ khí vật. Bởi lẽ, tất cả các vật nặng, ở giữa không trung, đều phải rơi xuống. Lại nữa, ở đây, do lực của phong tống xuất ra. Xuất tiểu tiện xứ (upastha) không thể lập làm căn cho vấn đề sinh lạc. Bởi lẽ, chính nữ nam căn khởi sinh lạc sự.
*Đặt vấn đề
Các thứ như cổ họng (kaṇṭha), răng (danta), mí mắt (akṣivartman), đốt xương (āṅgulīparvan), có tác dụng hỗ trợ đối với việc nuốt (abhyavaharṇa), nhai (carvaṇa), mở nhắm (unmeṣanimeṣa), co duỗi (saṃkocavikāśa), nên lập làm căn. Hoặc, tất cả các nhơn có khả năng tác động đối với tự sở tác (quả), do đó cũng nên lập làm căn.
*Bác bỏ
Tất cả các thứ đó tuy có tác dụng nhưng chẳng phải là tăng thượng nên không thể lập làm căn. Ở đây, ngữ cụ v.v..., cũng không thể lập làm căn.
Trong 22 căn, tám căn đầu từ căn con mắt v.v.... cho đến nam căn, phần trước đã nói. Mạng căn, thể là bất tương ưng, sẽ nói đến trong phần pháp bất tương ưng. Năm căn tín v.v..., thể là tâm sở, sẽ nói đến trong phần tâm sở.
Bây giờ, nói về năm thọ thân và ba căn vô lậu.
Văn Tụng.
Hán:
T29n1560-p0312a18 : 身 不 悅 名 苦 即 此 悅 名 樂
T29n1560-p0312a19 : 及 三 定 心 悅 餘 處 此 名 喜
T29n1560-p0312a20 : 心 不 悅 名 憂 中 捨 二 無 別
Âm Hán:
Thân bất duyệt danh khổ Tức thử duyệt danh lạc
Cập tam định tâm duyệt Dư xứ thử danh hỷ
Tâm bất duyệt danh ưu Trung xả nhị vô biệt[53]
Việt dịch:
Thân không vui là khổ. Thân vui gọi là lạc
Và tâm vui tam định. Cõi khác gọi là hỷ /7/.
Tâm không vui là ưu. Trung xả, hai không khác /8ab/.
Luận giải thích:
Thân, đây chỉ thân thọ, vì thọ y trên thân mà khởi; tức các loại cảm thọ tương ưng với năm thức.
Không vui[54]: nói không vui có nghĩa là tổn não (upaghātikā). Trong các loại cảm thọ của thân, cái gây nên sự tổn não được gọi là khổ căn.
Vui[55]: có nghĩa là nhiếp ích. Trong các loại cảm thọ của thân, cái có khả năng nhiếp ích được gọi là lạc căn.
Và tâm vui tam định: ở đệ tam định, cảm thọ tương ưng với tâm, có khả năng nhiếp ích cũng được gọi là lạc căn. Ở đệ tam định không có thân thọ vì năm thức thân không tồn tại; ở đó, tâm vui gọi là lạc.
Các cõi khác: chính trạng thái vui nầy của tâm, trừ đệ tam thiền, ở ba cõi dưới, được gọi là hỷ căn[56]. Ở đệ tam thiền, tâm vui, yên tịnh, không còn hỷ tham, nên gọi là lạc căn. Ba cõi dưới, tâm vui vẻ, thô động, còn có hỷ tham nên gọi là hỷ căn.
Cảm thọ tương ưng ý thức, gây tổn não, là tâm không vui; thọ đó được gọi là ưu căn
Trung xả: Trung là chẳng phải vui, chẳng phải không vui, tức cảm thọ không khổ không vui. Cảm thọ không khổ không vui nầy gọi là xả căn.
Hai không khác: như vậy, xả căn thuộc thân thọ hay tâm thọ?
Nên nói, thông cả hai.
Vì sao hai loại cảm thọ vui và không vui lại lập chung thành một căn?
Bởi lẽ, hai loại cảm thọ nầy, ở nơi thân hay tâm không có sự phân biệt. Tại tâm, sự khổ vui phần lớn đều do sự phân biệt sinh ra. Tại thân, không như vậy, chỉ do sức tác động của cảnh tạo nên. A la hán v.v... [57] sinh khởi năm loại cảm thọ cũng như vậy. Do đó, khi lập căn khổ lạc ở thân và tâm có sự khác biệt. Xả thọ vốn không phân biệt, sinh khởi tự nhiên, cho nên khi lập căn, tại thân tại tâm được hợp thành một; hơn nữa, cảm thọ khổ vui, nơi thân, nơi tâm hoặc tổn não hoặc nhiếp ích, trạng thái khác nhau nên lập thành căn riêng biệt. Xả thọ, nơi thân hay tâm đều không phân biệt, chẳng phải tổn não cũng chẳng phải nhiếp ích, trạng thái không khác nhau nên lập chung một căn.
Văn Tụng.
Hán:
T29n1560-p0312a21 見 修 無 學 道 依 九 立 三 根
Âm Hán:
Kiến tu vô học đạo Y cửu lập tam căn.[58]
Việt dịch:
Ba đạo kiến tu và vô học. Nương chín, lập ba căn /8cd/.
Luận giải thích:
/8cd/ Ba đạo kiến tu và vô học, nương chín, lập ba căn:
Nương chín căn gồm ý, lạc, hỷ, xả và năm căn tín v.v..., ở trong ba đạo, theo thứ tự, lập thành ba căn vô lậu; đó là tại kiến đạo, dựa vào chín căn nầy, lập vị tri đương tri căn; tại tu đạo, dựa vào chín căn nầy, lập dĩ tri căn; tại vô học đạo, cũng dựa vào chín căn nầy, lập cụ tri căn.
Ba tên gọi đó, căn cứ vào đâu mà lập nên?
Đó là, tại kiến đạo vị, đều có những cái chưa từng biết, nay có hành tướng đang biết chuyển khởi, gọi đó là vị tri đương tri căn[59]. Tại tu đạo, không có cái chưa từng biết, chỉ đoạn trừ các tùy miên còn lại, với chính cảnh giới ấy thường xuyên liễu tri nên gọi đó là dĩ tri căn[60]. Tại vô học đạo, biết mình đã biết, nên gọi là tri; có được cái biết nầy nên nói là cụ tri.[61] Hoặc huân tập cái biết nầy thành tánh nên gọi là cụ tri[62]. Nghĩa là do chứng đắc tận trí và vô sanh trí, nên tự biết một cách như thật rằng, ta đã biết cùng tận sự khổ, không còn gì để biết thêm nữa; như vậy mà nói rộng ra với ba Thánh đế còn lại. Các căn đó gọi là vị tri đương tri, v.v....
Như vậy, giải thích xong về thể khác nhau của các căn.
Tiếp đến, bàn luận các đặc tính dị biệt. Trong 22 căn, bao nhiêu căn thuộc hữu lậu, bao nhiêu căn thuộc vô lậu?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312a22 : 唯 無 漏 後 三 有 色 命 憂 苦
T29n1560-p0312a23 : 當 知 唯 有 漏 通 二 餘 九 根
Âm Hán:
Duy vô lậu hậu tam Hữu sắc mạng ưu khổ
đương tri duy hữu lậu Thông nhị dư cửu căn [63]
Việt dịch:
Ba sau cùng vô lậu Hữu sắc, mạng, ưu, khổ
Nên biết, là hữu lậu Cả hai, chín căn còn lại /9/.
Luận giải thích:
/9a/Ba sau cùng vô lậu: tiếp đến, như trước đã nói, thể của ba căn sau cùng là vô lậu. Vô lậu (anāsrava) có nghĩa là vô cấu (amala). Cấu cùng với lậu tuy tên gọi khác nhau nhưng thể thì giống nhau.
/9bc/Hữu sắc, mạng ưu khổ, nên biết là hữu lậu: hữu sắc (rūpī) là bảy sắc căn. Bảy sắc căn nầy và các căn mạng, ưu, khổ hoàn toàn là hữu lậu. Bảy hữu sắc gồm năm căn mắt v.v... và hai căn nữ nam nhiếp thuộc sắc uẩn.
/9d/.Cả hai, chín căn còn lại: các căn ý, lạc, hỷ, xả và năm căn tín v.v...; chín căn nầy đều thông cả hữu lậu và vô lậu.
Có các Sư khác[64] nói, năm căn tín v.v... duy chỉ thuộc vô lậu, cho nên đức Thế tôn nói, “Nếu hoàn toàn[65] không có năm căn tín v.v..., Ta nói rằng, chúng sanh đó thuộc hàng ngoại dị sanh.”[66]
Đoạn Kinh nầy không phải là chứng cứ trung thực (jñāpaka); đó chỉ là căn cứ vào vô lậu căn nên nói như vậy.
Làm sao biết?
Bởi vì, đầu tiên, căn cứ vào năm căn vô lậu, tín v.v..., kiến lập các thánh vị khác nhau, nói câu trên; sau đó, lại nói hoặc các loài dị sanh có hai loại- một, nội[67]; hai, ngoại[68]. Nội chỉ cho chúng sanh không đoạn thiện căn. Ngoại chỉ cho chúng sanh mà thiện căn đã đoạn. Ở đây, căn cứ vào ngoại dị sanh, nên nói, “Nếu hoàn toàn không có năm căn tín v.v..., Ta nói chúng sanh kia thuộc hàng ngoại dị sanh.” Lại nữa, Khế kinh nói, “Có các chúng sanh sống ở thế gian hoặc sinh ra, hoặc lớn lên đều có các căn tín v.v.. ở các mức độ thượng trung hạ khác nhau.” Đây là lúc đức Thế tôn chưa chuyển pháp luân. Cho nên biết rằng, các căn tín v.v.... thông cả hữu lậu và vô lậu. Lại nữa, đức Thế tôn nói, “Ta nếu đối với năm căn tín v.v... mà chưa biết một cách như thật rằng đây là sự tập khởi, là sự diệt tận; là vị ngọt; là tai hoạ; là sự xuất ly[69] thì Ta chưa thể ra khỏi thế gian thiên nhơn, ma phạm v.v..., cho đến chưa thể chứng được quả vị bồ đề vô thượng chánh đẳng.” Cho đến nói rộng ra. Các phẩm loại được quán sát như vậy, chẳng phải là pháp vô lậu. Cho nên biết rằng, năm căn tín v.v..., thông cả hữu lậu và vô lậu.
Trong 22 căn, bao nhiêu căn là dị thục, bao nhiêu căn chẳng phải dị thục?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312a24 : 命 唯 是 異 熟 憂 及 後 八 非
T29n1560-p0312a25 : 色 意 餘 四 受 一 一 皆 通 二
Âm Hán:
Mạng duy thị dị thục Ưu cập hậu bát phi
Sắc ý dư tứ thọ. Nhất nhất giai thông nhị.[70]
Việt dịch
Mạng căn là dị thục Ưu và tám đều không
Sắc, ý và bốn thọ Tất cả đều thông hai /10/.
Luận giải thích:
/10a/.Mạng căn duy dị thục: duy nhất mạng căn quyết định là dị thục.
Nếu như vậy, khi chư vị A-la-hán lưu đa thọ hành[71], chính thọ hành nầy là mạng căn, mạng căn như vậy, cái gì là dị thục?
1. Chánh tông (trả lời):
a. Vị thứ nhất: như Bổn luận[72] nói, “Thế nào là tì-kheo lưu đa thọ hành?
Đó là vị A-la-hán thành tựu thần thông, tâm được tự tại, hoặc đối với tăng chúng[73] hoặc đối với từng cá nhân khác, đem các thứ phương tiện của đời sống như y bát v.v..., tùy phần bố thí. Bố thí rồi phát nguyện. Phát nguyện rồi liền nhập đệ tứ biên tế[74] tịnh lự . Từ định khởi, tâm nghĩ miệng nói, nguyện cho những gì[75] là nghiệp có khả năng dẫn đến dị thục thọ dụng của tôi[76] chuyển thành quả dị thục thọ mạng. Bấy giờ, nghiệp có khả năng dẫn đến dị thục thọ hưởng[77] kia liền chuyển thành quả dị thục thọ mạng.”[78]
b. Vị thứ hai: Vì muốn thâu nhận trở lại quả dị thục tàn dư trong nghiệp đời trước,vị kia nói: Những dị thục tàn dư nào của nghiệp mà tôi đã lãnh thọ trong đời trước, nay bằng năng lực của định biên tế đã được tu tập mà thâu nhận thọ dụng trở lại.”[79]
Thế nào là tì kheo xả đa thọ hành?
Đó là vị A-la-hán thành tựu thần thông, tâm được tự tại, đối với tăng chúng v.v..., mà bố thí như trước. Bố thí xong phát nguyện, rồi nhập đệ tứ tịnh lự biên tế. Từ định khởi, tâm nghĩ miệng nói, những gì là nghiệp có khả năng dẫn đến dị thục thọ mạng, nguyện cho thảy đều chuyển thành quả dị thục dẫn đến thọ dụng. Bấy giờ, cái nghiệp dẫn đến dị thục thọ mạng kia liền chuyển thành quả dị thục thọ dụng.
Tôn giả Diệu âm[80] nói rằng: “Các vị A-la-hán kia khởi đệ tứ biên tế định lực, dẫn đưa đại chủng của sắc giới khiến chúng hiện hữu trong thân; đại chủng đó hoặc thuận thọ hành hoặc nghịch thọ hành. Do nhơn duyên như vậy mà hoặc lưu thọ hành hoặc xả thọ hành.”
Nên nói như thế nầy[81], vị A-la-hán kia do lực tam-ma-địa tự tại này, chuyển cái thế phần tồn tại của các căn đại chủng đã có được do bởi nghiệp lực đời trước, rồi dẫn khởi và chấp thủ thế phần tồn tại của các căn đại chủng chưa từng được khởi lên do định lực. Cho nên, mạng căn nầy chẳng phải là dị thục.[82] Tất cả các thế phần còn lại đều là dị thục.
Từ chỗ đã bàn mà nói thêm rằng[83], với nhơn duyên gì, các vị A-la-hán kia lưu đa thọ hành? Đó là, vì sự lợi ích, an lạc cho chúng sanh; hoặc vì, muốn làm cho Thánh giáo tồn tại lâu dài, quán sát tự thân, thọ hành sắp chấm dứt; quán sát tha nhơn không có khả năng làm hai việc nầy.
Lại nữa, do nhơn duyên gì mà xả đa thọ hành?
Các vị A-la-hán kia tự xem xét sự hiện hữu của bản thân ở thế gian đem lại lợi ích an lạc cho tha nhân quá ít ỏi; hoặc vì các thứ khổ bức thân như bệnh v.v.... Như có bài tụng nói rằng:
Hán:
梵 行 妙 成 立 聖 道 以 善 修
壽 盡 時 歡 喜 由 如 捨 眾 病
Âm hán :
Phạm hạnh diệu thành lập Thánh đạo dĩ thiện tu
Thọ tận thời hoan hỷ Do như xả chúng bệnh.
Việt dịch :
Người trì giới tinh nghiêm Khéo tu tập Thánh đạo
Hoan hỷ khi mạng hết Như xa rời các bệnh.
*Hỏi về nơi chốn và người:
Nên biết, trong đó, y cứ vào chỗ nào, và ai là người có khả năng lưu xả thọ hành như thế?
Đó là ở ba châu,[84] trong thân phần nam nữ,[85] A-la-hán hạng bất thời giải thoát[86], chứng đắc biên tế định; do trong thân các vị có định tự tại nên không có phiền não.
Kinh nói: “Thế tôn lưu đa mạng hành, xả đa thọ hành.” Thế thì mạng hành thọ hành khác nhau thế nào?[87]
a. Có quan điểm cho rằng, không khác nhau. Như Bản luận nói, “Thế nào gọi là mạng căn? Đó là thọ mạng trong ba cõi.”
b. Có các Luận sư khác nói, nghiệp quả đời trước gọi là thọ hành, nghiệp quả hiện tại gọi là mạng hành. [88]
c. Có thuyết cho rằng, do mạng căn nầy khiến chúng đồng phần tồn tại gọi là thọ hành; do mạng căn nầy khiến chúng đồng phần tồn tại tạm thời gọi là mạng hành.[89]
Chữ “đa” có ba giải thích:
a.Ý nhằm hiển bày lưu và xả mạng hành và thọ hành trong nhiều niệm (sát-na), chứ chẳng phải là trong một sát-na mà mạng hành và thọ hành có sự lưu hay xả vậy.
b. Có thuyết, chữ “đa” (trong lưu đa thọ hành) nầy là ngăn chận quan điểm cho rằng, có một thật thể là mạng thọ tồn tại trải qua nhiều thời gian.
c. Có thuyết, chữ “đa” nầy là hiển bày không có một thật thể mạng thọ, chỉ dựa vào “đa hành” giả lập hai tên gọi thọ mạng như vậy. Nếu không như thế, thì không nên dùng chữ “hành.”
Đức Thế tôn vì lý do gì mà xả đa thọ hành, lưu đa mạng hành?
Nhằm để hiển bày đối với sự ”chết” có được tự tại cho nên xả đa thọ hành; để hiển bày đối với sự sống có được sự tự tại nên lưu đa thọ hành. Và chỉ kéo dài trong ba tháng, không thêm, không bớt. Vượt quá ba tháng thì không còn điều gì để giáo hoá nữa (hoá sự); ít hơn ba tháng thời sự lợi sanh chưa được trọn vẹn. Để xác nhận điều đã được tuyên bố trước đó, đức Thế tôn nói rằng, “Ta khéo tu hành bốn thần túc cho nên muốn kéo dài mạng sống một kiếp, hoặc hơn một kiếp, như tâm mong muốn, liền được kéo dài.”[90]
Các Luận sư Tỳ bà sa nói,[91] vì để hiển bày, hiện tại có khả năng nhiếp phục[92] hai loại ma uẩn và tử; trước kia ở dưới cây bồ đề, đức Thế tôn đã nhiếp phục thiên ma và phiền não ma rồi vậy.
Bàn luận rộng ra đã nhiều, nay trở về phần chính.
/10b/ Ưu và tám đều không: ưu căn và tám căn sau, tín v.v... đều chẳng phải là dị thục. Vì là hữu ký vậy.
/10cd/ Sắc, ý và bốn thọ tất cả đều thông hai.
Còn lại thông cả hai; đó là 12 căn gồm, bảy sắc căn, ý căn, trừ ưu, bốn thọ còn lại, mỗi mỗi đều thông cả hai loại dị thục và chẳng phải dị thục.
Bảy sắc căn, nếu là sở trưởng dưỡng thì chẳng phải là dị thục; ngoài ra là dị thục.
Ý căn và bốn thọ căn, nếu thuộc thiện nhiễm ô, oai nghi lộ, công xảo xứ và năng biến hoá, tuỳ theo chỗ ứng hợp, chẳng phải là dị thục; ngoài ra là dị thục.
(Ngoại nạn): Nếu ưu căn chẳng phải là dị thục thì đối chiếu với Kinh nầy, làm sao thông hợp? Kinh nầy nói, “Có ba loại nghiệp: thuận hỷ thọ nghiệp,[93] thuận ưu thọ nghiệp, thuận xả thọ nghiệp.”
Căn cứ vào sự tương ưng với thọ mà nói thuận thì không có gì trái ngược; nghĩa là, nghiệp tương ưng với ưu nên nói là thuận ưu thọ nghiệp. Cũng giống như, xúc tương ưng với lạc nói là thuận lạc thọ xúc.[94]
Nếu vậy thì, thuận hỷ, thuận xả thọ nghiệp cũng nên như vậy.[95]
Vì chỉ một Kinh nói[96] nên, tuỳ theo ý Ông, với tôi không có gì trái ngược; dị thục hay tương ưng, về lý đều không có lỗi.
(Nạn tiếp) Không thể giải thích được nên đành phải giải thích như vậy; thực sự, về lý, căn cứ vào đâu để cho rằng, ưu chẳng phải là dị thục[97].
(Hữu Bộ giải thích) Vì ưu do sự phân biệt sai biệt[98] mà có; và ưu chấm dứt cũng như vậy. Với dị thục thì không.
(Ngoại nạn) Nếu nói vậy, hỷ căn cũng không phải là dị thục. Bởi lẽ cũng do phân biệt sai biệt mà có; và chấm dứt cũng như vậy.
(Hữu Bộ phản nạn) Nếu cho rằng, ưu căn là dị thục, khi đã tạo nghiệp vô gián, nhân[99] ấy tức thời sinh ưu; bấy giờ, nghiệp nhân đó nên nói là quả đã chín.[100] Cũng như vậy mà hỏi về hỷ căn rằng, nếu cho rằng hỷ căn là dị thục, khi đã tạo thắng phước nghiệp, nhân ấy tức thời sanh hỷ; bấy giờ, nghiệp nhân nầy nên gọi là quả đã chín.
(Tỳ ba sa) Các Luận sư Tỳ Bà Sa đều nói, các vị đã ly dục không có ưu căn; dị thục thì không như vậy (ly dục vẫn có), cho nên ưu căn chẳng phải là dị thục.
(Vấn nạn) Nếu vậy nên nói, do tướng trạng nào mà có thể biết có hỷ căn dị thục của hạng hữu tình đã ly dục?
Tuỳ theo tướng trạng mà kia có, tướng trạng này cũng vậy; nghĩa là, thiện hỷ căn ở nơi địa vị ly dục có hiện hành; vô ký dị thục hỷ, ở đó cũng chẳng phải không có. Ở trong địa vị ly dục, tất cả các loại ưu đều không có, cho nên quyết định chẳng phải là dị thục.
Tám căn, nhãn v.v... nếu ở thiện thú, thuộc thiện dị thục; nếu tại ác thú, thuộc ác dị thục. Ý căn hoặc tại thiện thú hoặc tại ác thú, tùy theo đó dị thục hoăc ác hoặc thiện. Hỷ, lạc, xả căn, dù hiện hành cõi nào cũng đều là thiện dị thục. Khổ căn, dù ở thiện thú hoặc ác thú, đều là ác dị thục. Ở trong thiện thú, chúng sanh nhị hình (huỳnh môn), về căn xứ do nghiệp bất thiện chiêu cảm; về sắc căn thiện thú do thiện nghiệp dẫn thủ.
Như vậy là đã nói xong về dị thục.
Trong 22 căn, có bao nhiêu căn có dị thục; bao nhiêu căn không có dị thục?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312a26 : 憂 定 有 異 熟 前 八 後 三 無
T29n1560-p0312a27 : 意 餘 受 信 等 一 一 皆 通 二
Âm Hán:
Ưu định hữu dị thục Tiền bát hậu tam vô
Ý dư thọ tín đẳng Nhất nhất giai thông nhị.[101]
Việt dịch:
Ưu ắt có dị thục Tám trước, ba sau không
Ý, thọ còn lại, tín, v.v.. tất cả đều thông hai /11/.
Luận giải thích:
/11a/.Ưu ắt có dị thục: Ưu căn, như đoạn văn trước đã tranh luận, nên biết, quyết định có dị thục. Căn cứ vào nghĩa duy và vượt nên tụng nói là quyết định. Đó là nêu bày ưu căn có dị thục; và gồm cả hai nghĩa, nên đã vượt thứ lớp mà nói. Gồm cả hai nghĩa: (1) Ưu chẳng phải là vô ký, khởi lên do tư mạnh mẽ.[102] (2) Cũng chẳng phải là vô lậu, mà là thuộc tán địa vậy. Do hai nghĩa như vậy nên đã không theo thứ tự mà được đem nói trước; ưu căn quyết định có dị thục.
/11b/.Tám trước, ba sau không: tám căn đầu, mắt v.v... và ba căn sau cùng, quyết định không có dị thục. Bởi lẽ, tám căn trước là vô ký; ba căn sau là vô lậu.
/11cd/.Ý, thọ còn lại, tín, v.v.., tất cả đều thông hai: tất cả còn lại đều thông cả hai; đó là ý căn, các thọ còn lại, và tín v.v.... Nói v.v....(đẳng) là chỉ cho bốn căn tinh tấn, v.v....Mười hai căn nầy, mỗi mỗi đều thông cả hai loại. Ý, lạc, hỷ, xả, nếu thuộc bất thiện, thiện hữu lậu là có dị thục; nếu là vô ký, vô lậu thì không có dị thục. Khổ căn, nếu là thiện, bất thiện đều có dị thục; nếu là vô ký thì không có dị thục. Năm căn, tín v.v..., nếu thuộc hữu lậu là có dị thục; nếu thuộc vô lậu thì không có dị thục.
Như vậy đã nói xong về có dị thục, không có dị thục.
Trong 22 căn, bao nhiêu căn là thiện, bao nhiêu căn là bất thiện và bao nhiêu căn là vô ký tánh?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312a28 : 唯 善 後 八 根 憂 通 善 不 善
T29n1560-p0312a29 意 餘 受 三 種 前 八 唯 無 記
Âm Hán:
Duy thiện hậu bát căn Ưu thông thiện bất thiện
Ý dư thọ tam chủng Tiền bát duy vô ký.[103]
Việt dịch:
Duy thiện, tám căn sau Ưu thông thiện bất thiện
Ý, các thọ còn lại, cả ba Tám trước, duy vô ký /12/.
Luận giải thích:
/12a/.Duy thiện, tám căn sau: tám căn, tín, v.v... hoàn toàn là thiện. Theo thứ tự, tám căn nầy nằm ở sau, nhưng theo văn mạch trước nên được đưa lên đầu.
/12b/.Ưu thông thiện bất thiện: ưu căn thông cả thiện và bất thiện tánh.
/12c/.Ý, các thọ còn lại, cả ba: ý căn và bốn thọ còn lại đều thông cả ba tánh.
/12d/.Tám trước, duy vô ký: tám căn, mắt, v.v..., thuộc vô ký tánh.
Như vậy, đã nói xong về ba tánh thiện, bất thiện, v.v....
Trong 22 căn, bao nhiêu căn hệ thuộc Dục giới, bao nhiêu hệ thuộc Sắc giới, bao nhiêu hệ thuộc Vô sắc giới?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312b01 : 欲 色 無 色 界 如 次 除 後 三
T29n1560-p0312b02 : 兼 女 男 憂 苦 并 餘 色 喜 樂
Âm Hán:
Dục, Sắc, vô sắc giới như thứ, trừ hậu tam
Kiêm nữ nam ưu khổ tịnh trừ sắc hỷ lạc.[104]
Việt dịch:
Cõi Dục Sắc và Vô sắc Thứ tự, trừ ba sau;
Thêm nữ nam ưu khổ Và trừ sắc hỷ lạc /13/.
Luận giải thích:
/13abc/ Cõi Dục Sắc và Vô sắc thứ tự, trừ ba sau và trừ các căn nữ nam ưu khổ
Theo thứ tự, cõi Dục trừ ba căn vô lậu sau cùng, vì ba căn đó không hệ thuộc. Cho nên biết rằng, chỉ có 19 căn hệ thuộc Dục giới.
Sắc giới cũng giống như trước, trừ ba vô lậu căn, trừ thêm bốn căn nam, nữ, ưu, khổ, còn lại 15 căn hệ thuộc sắc giới.
Trừ hai căn nam, nữ, bởi lẽ, ở cõi Sắc không còn vấn đề dâm dục; hơn nữa, hai căn nam, nữ khiến cho thân thể trở nên xấu xí.
Nếu vậy, tại sao lại nói ở cõi Sắc có nam giới?
Nơi nào nói vậy?
Trong Khế kinh nói, “Không có bất cứ trường hợp, không bao giờ có thể có thân nữ làm Phạm vương. Trường hợp xảy ra, có nam thân làm Phạm vương.”[105]
Ngoài ra có cõi, có nam tướng; đó là cõi Dục, có trong thân tướng nam giới[106].
Không có khổ căn: vì thân thể vốn tịnh diệu; lại nữa, ở cõi đó, không có các pháp bất thiện. Không có ưu căn: vì do xa-ma-tha (śamatha) tương tục, thắm nhuận; lại nữa, ở cõi kia (định kia), không có các việc não hại.
/13d/.Và trừ sắc hỷ lạc: cõi Vô sắc cũng như trước, trừ ba vô lậu, nữ, nam, ưu, khổ; và trừ năm sắc căn, cùng hai căn hỷ, lạc; cho nên biết rằng, tám căn còn lại hệ thuộc cõi Vô sắc; đó là, ý căn, mạng căn, xả căn và năm căn tín v.v...
Như vậy, đã nói xong, các căn hệ thuộc cõi Dục, v.v...
Trong 22 căn, bao nhiêu căn thuộc Kiến sở đoạn[107], bao nhiêu căn thuộc Tu sở đoạn và bao nhiêu căn thuộc Phi sở đoạn? Tụng đáp,
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312b03 : 意 三 受 通 三 憂 見 修 所 斷
T29n1560-p0312b04 : 九 唯 修 所 斷 五 修 非 三 非
Âm Hán:
Ý tam thọ thông tam Ưu kiến tu sở đoạn
Cửu duy tu sở đoạn Ngũ tu phi tam phi[108]
Việt dịch:
Ý, ba thọ thông ba Ưu đoạn ở kiến tu
Chín chỉ đoạn ở tu Năm tu phi, ba phi /14/.
Luận giải thích:
/14a/.Ý, ba thọ thông ba: nghĩa là ý căn, và ba thọ căn hỷ, xả, lạc, mỗi mỗi đều thông cả ba tức là được đoạn trừ ở cả hai đạo Kiến, Tu, và thông với Phi.
/14b/.Ưu đoạn ở kiến tu: Ưu căn chỉ được đoạn trừ ở kiến đạo và tu đạo; vì chẳng phải là vô lậu.
/14c/. Chín chỉ đoạn ở tu: Bảy sắc căn và hai căn mạng, khổ chỉ được đoạn trừ ở tu đạo; vì không thuộc pháp nhiễm ô, không do thức thứ sáu sanh ra; tất cả đều thuộc hữu lậu.
/14d/. Năm tu phi, ba phi: Năm căn tín,v.v... hoặc được đoạn trừ ở tu đạo, hoặc thông với phi sở đoạn, vì chẳng thuộc nhiễm ô; tất cả thông với hữu lậu và vô lậu. Ba căn sau cùng chỉ thông với phi sở đoạn, vì là vô lậu, và vì chẳng phải pháp vô quá,[109] là pháp cần được đoạn trừ.
Như vậy, đã nói xong các tính chất khác nhau của căn.
Ở giới nào, có bao nhiêu căn dị thục có đầu tiên?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312b05 : 欲 胎 卵 濕 生 初 得 二 異 熟
T29n1560-p0312b06 : 化 生 六 七 八 色 六 上 唯 命
Âm Hán:
Dục thai, noãn, thấp sanh. Sơ đắc nhị dị thục.
Hoá sanh lục thất bát. Sắc lục thượng duy mạng.[110]
Việt dịch:
Dục, từ thai, trứng, thấp mới đầu, hai dị thục;
Hoá sanh sáu bảy tám. Sắc sáu, trên duy mạng /15/.
Luận giải thích:
1. Cõi Dục.
/15ab/.Dục, từ thai trứng thấp; mới đầu, hai dị thục: ở cõi Dục, chúng sanh từ thai, trứng, thấp sanh ra, đầu tiên chỉ có được hai căn dị thục là thân và mạng; bởi lẽ, trong ba loại thọ sanh nầy, các căn phát sinh dần dần.
Ở đó, tại sao lại không có hai căn ý và xả?
Hai căn nầy trong giai đoạn tục sanh[111] nó nhất định thuộc nhiễm ô vậy (dị thục thuộc vô ký).
/15c/.Hoá sanh sáu bảy tám: chúng sanh loài hoá sanh[112], khi mới thọ sanh, có đến 6,7 hoặc 8; đó là loài vô hình,[113] khi mới thọ sanh có sáu căn. Như thời kiếp sơ vậy. Sáu căn đó là gì? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và mạng. Nếu là một hình,[114] khi mới thọ sanh, có được bảy căn. Như chư thiên,v.v.... Nếu là hai hình,[115] khi mới thọ sanh, có được 8 căn.
Cũng có nhị hình thọ sanh trong loài hoá sanh chăng[116]?
Trong các ác thú, đều có nhị hình hoá sanh.
Như vậy, nói xong, ở Dục giới, các căn đầu tiên có được.
2. Cõi sắc và Vô sắc.
/15d/.Sắc sáu, trên duy mạng: Ở cõi Dục, dục tham mạnh nên chỉ nói dục; cõi Sắc, sắc pháp mạnh nên chỉ nói sắc. Khế kinh cũng nói, tịch tĩnh giải thoát, vượt quá Sắc và Vô sắc.
Cõi Sắc, ban đầu có sáu căn dị thục; giống như vô hình hoá sanh ở cõi Dục.
Cõi trên hết[117] chỉ có mạng căn; nghĩa là, cõi Vô sắc có định lực thù thắng[118] và xứ sở thù thắng cho nên nói là trên. Ở cõi Vô sắc, lúc ban đầu, chỉ có dị thục mạng căn, ngoài ra, không có căn nào.
Đã nói về dị thục căn, đầu tiên có được.
Tiếp đến, ở mỗi giới, khi lâm chung, bao nhiêu căn diệt sau cùng?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312b07 : 正 死 滅 諸 根 無 色 三 色 八
T29n1560-p0312b08 : 欲 頓 十 九 八 漸 四 善 增 五
Âm Hán:
Chánh tử diệt chư căn Vô sắc tam, sắc bát.
Dục đốn thập cửu bát tiệm tứ thiện tăng ngũ[119]
Việt dịch:
Chánh tử các căn diệt Vô sắc ba, sắc tám.
Dục đốn, mười chín tám; tiệm bốn, thiện thêm năm /16/.
Luận giải thích:
1.Cõi Vô sắc.
/16ab/.Chánh tử các căn diệt, Vô sắc ba: ở cõi Vô sắc, khi sắp lâm chung, ba căn mạng, ý, xả diệt mất sau cùng.
2. Cõi Sắc.
Sắc tám: nếu ở cõi Sắc, khi sắp lâm chung, ba căn vừa nói ở trước cùng với năm căn nhãn v.v..., tám căn đó diệt sau cùng. Tất cả các loài hoá sanh đều có đủ các căn trong khi sống chết.
3. Cõi Dục.
a. Đốn tử.
/16c/.Dục đốn, mười chín tám: nếu ở cõi Dục, chết đột ngột, có 10,9,8 căn diệt sau cùng. Nếu là nhị hình, có 10 căn diệt sau cùng; tức là hai căn nam, nữ cọng với tám căn trước. Nếu thuộc nhất hình, có 9 căn diệt sau cùng tức là trong hai căn nam nữ tuỳ theo đó mà trừ một. Nếu thuộc vô hình, có tám căn diệt sau cùng tức là không có hai căn nam, nữ, chỉ có tám căn trước. Như vậy là căn cứ vào sự chết đột ngột.
b. Tiệm tử.
/16d/.Tiệm bốn: nếu chết dần dần, cuối cùng chỉ có bốn căn; đó là, tại Dục giới, khi chết dần dần, bốn căn thân, mạng, ý, xả diệt sau cùng. Bốn căn nầy không có nghĩa diệt trước hoặc sau.
Nói như vậy, nên biết rằng, chỉ căn cứ vào tâm nhiễm ô vô ký khi lâm chung vậy.
c. Thiện.
/16d/.Thiện thêm năm: nếu trong tam giới, với thiện tâm khi chết, có đủ cả năm tín, v.v...; cho nên trước có nói, trong tất cả các địa vị, số lượng kia đều nên gia thêm năm căn tín,v.v...; nghĩa là, ở Vô sắc, tăng lên 8 căn; cho đến ở cõi Dục, chết dần dần, tăng lên 9 căn; ở trung gian nhiều ít như thế nào, nên theo lý mà biết.
Tất cả các căn pháp trong phần phân biệt căn, nên suy nghĩ phân biệt[120], trong 22 căn, những quả sa môn nào, có bao nhiêu căn chứng đắc?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312b09 : 九 得 邊 二 定 七 八 九 中 二
T29n1560-p0312b10 : 十 一 阿 羅 漢 依 一 容 有 說
Âm Hán:
Cửu đắc biên nhị định Thất bát cửu trung nhị
Thập nhất a la hán Y nhất dung hữu thuyết.[121]
Việt dịch:
Chín đắc hai định biên Bảy tám chín, hai giữa
Mười một A la hán Nương một cùng có mà nói /17/.
Luận giải thích:
Biên chỉ cho quả Dự lưu và quả A-la-hán; trong bốn quả sa môn, hai quả nầy nằm trước và sau vậy. Trung chỉ cho quả Nhất lai và Bất hoàn. So sánh với hai quả trước và sau, chúng nằm ở giữa.
/17a/.Chín đắc hai định biên: quả Dự lưu tức quả đầu tiền do chín căn chứng đắc; đó là, ý căn, xả căn, năm căn (tín v.v... ) và vị tri đương tri căn, dĩ tri căn. Vị tri căn, tại vô gián đạo[122], dĩ tri căn tại giải thoát đạo[123]. Hai căn nầy hỗ trợ cho nhau để chứng đắc quả Dự lưu. Như thứ tự, đối với việc chứng đắc ly hệ, làm dẫn nhơn[124] và y nhơn[125]. Quả A-la-hán[126] cũng do chín căn chứng đắc; đó là, ý căn, năm căn (tín, v.v...), dĩ tri căn, cụ tri căn, và cọng thêm một trong ba căn hỷ, xả, lạc. Dĩ tri căn tại vô gián đạo; cụ tri căn tại giải thoát đạo; hai căn nầy hỗ trợ cho nhau để chứng đắc quả A-la-hán. Theo thứ tự, đối với việc chứng đắc ly hệ, làm dẫn nhơn, y nhơn.
/17b/.Bảy tám chín, hai giữa: (hai giữa tức) hai quả trung gian, tuỳ theo sở ứng, có bảy, tám, chín căn chứng đắc.
Vì sao như vậy?
Như với quả Nhất lai, theo thứ đệ chứng,[127] y thế gian đạo[128], do bảy căn chứng đắc; đó là các căn ý, xả, năm căn tín, v.v...; y xuất thế gian đạo[129], do tám căn chứng đắc; đó là, gồm bảy căn trước và thêm dĩ tri căn. Bội ly dục tham, siêu việt chứng,[130] như quả Dự lưu, do chín căn chứng đắc.
Nếu quả Bất hoàn[131], theo thứ đệ chứng, y thế gian đạo do bảy căn chứng đắc; y xuất thế gian đạo do tám căn chứng đắc. Cũng giống như thứ đệ chứng quả Nhất lai ở trước. Toàn ly dục tham[132], siêu việt chứng, do chín căn chứng đắc. Giống như siêu việt chứng quả Nhất lai ở trước. Nói chung (tuy giống Nhất lai được chứng đắc bởi 7,8,9), vẫn có sai biệt; đó là do y địa nầy (toàn ly dục tham siêu việt chứng) có sự sai biệt, tức trong lạc, hỷ, xả, có thể theo đó mà thủ đắc một. Quả Nhất lai trước, siêu việt chỉ có duy nhất xả căn. Lại nữa, thứ đệ chứng quả Bất hoàn, nếu ở trong đệ cửu giải thoát đạo nhập căn bản địa, y thế gian đạo, do tám căn chứng đặng; trong vô gián đạo có xả thọ tương ưng; trong giải thoát đạo, lại có hỷ thọ; hai thọ nầy hỗ trợ lẩn nhau chứng quả thứ ba. Đối với ly hệ đắc, hai nhơn dẫn, y, cũng giống như trước; y xuất thế gian đạo, do chín căn thành tựu; tám căn như trước và thêm căn dĩ tri là chín. Vô gián đạo và giải thoát đạo, căn dĩ tri nầy đều có.
/17cd/.Mười một A la hán nương một cùng có mà nói
Há chẳng phải trong trong Căn bổn A-tỳ đạt-ma,[133] có hỏi rằng, “Do bao nhiêu căn chứng đắc quả A la hán? Đáp, 11 căn chứng đắc.” Thế tại sao đây lại nói, do chín căn chứng đắc?
Thật sự chứng đắc quả thứ tư chỉ do chín căn, song Bổn luận nói 11 căn, đó là y nơi một thân có thể có nên nói như vậy; nghĩa là có một hạng bổ-đặc-già-la[134], từ vô học vị[135], sau nhiều lần thối thất, thường thường với lạc, hỷ, xả, tùy trường hợp, có một căn hiện tiền,[136] trở lại chứng đắc quả A-la-hán. Do vậy, Luận nầy, nói 11 căn; song, không khi nào ba thọ cùng khởi lên một lúc, cho nên nay nói quyết định do chín căn.
Ở trong quả Bất hoàn, sao lại không nói như vậy(cùng có ba thọ)?
Bởi lẽ, không có trường hợp bằng lạc căn chứng quả Bất hoàn rồi sau đó có sự thối lui;[137] cũng không có việc đã thối lui rồi do lạc căn, lại chứng đắc. Đây chẳng phải quả ly dục Bất hoàn do siêu việt chứng đắc, có sự thối lui; đây là quả ly dục bất hoàn do hai đạo chứng đắc (thế gian đạo và xuất thế gian đạo), rất kiên cố.
Nay nên suy nghĩ, trong 22 căn, khi một căn thành tựu, có bao nhiêu căn quyết định cùng thành tựu?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312b11 : 成 就 命 意 捨 各 定 成 就 三
T29n1560-p0312b12 : 若 成 就 樂 身 各 定 成 就 四
T29n1560-p0312b13 : 成 眼 等 及 喜 各 定 成 五 根
T29n1560-p0312b14 : 若 成 就 苦 根 彼 定 成 就 七
T29n1560-p0312b15 : 若 成 女 男 憂 信 等 各 成 八
T29n1560-p0312b16 二 無 漏 十 一 初 無 漏 十 三
Âm Hán:
Thành tựu mạng, ý, xả. Các định thành tựu tam.
Nhược thành tựu lạc, thân. Các định thành tựu tứ[138]
Thành nhãn đẳng cập hỷ. Các định thành ngũ căn
Nhược thành tựu khổ căn. Bỉ định thành tựu thất
Nhược thành nữ, nam, ưu. Tín đẳng, các thành bát
Nhị vô lậu, thập nhất. Sơ vô lậu thập tam
Việt dịch:
Thành tựu mạng, ý, xả đều cùng thành tựu ba.
Nếu thành tựu lạc, thân đều cùng thành tựu bốn /18/.
Thành tựu mắt, v.v.. và hỷ đều cùng thành tựu năm.
Nếu thành tựu khổ căn kia cùng thành tựu bảy /19/.
Nếu thành tựu nữ nam ưu Tín, v.v... cùng thành tựu tám.
Hai vô lậu, mười một Sơ vô lậu, mười ba /20/.
Luận giải thích:
/18ab/.Thành tựu mạng, ý, xả, đều cùng thành tựu ba.
Ba căn mạng, ý, xả, khi thành tựu một, cả ba căn đều thành tựu. Trong ba căn này, không thể thiếu một mà các căn còn lại thành tựu được.
Ngoài ba căn nầy, các căn còn lại (19 căn) là bất định: hoặc thành tựu hoặc không thành tựu. Trong đó, bốn căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, nếu sanh ở Vô sắc giới, quyết định không thành tựu. Nếu sanh Dục giới mà (chúng) chưa có, hoặc đã mất tức cũng không thành tựu. Thân căn chỉ không thành tựu khi sanh ở Vô sắc giới. Hai căn nữ nam, sanh ở hai giới trên, quyết định không thành tựu; nếu sanh Dục giới, chưa có hoặc đã mất, cũng không thành tựu. Lạc căn, ở loài dị sanh, sanh ở tứ định và Vô sắc giới, quyết định không thành tựu. Hỷ căn ở loài dị sanh, sanh ở tam, tứ định và Vô sắc giới, quyết định không thành tựu. Khổ căn, nếu sanh Sắc và Vô sắc giới, quyết định không thành tựu. Ưu căn ở nơi tất cả các hàng ly dục tham, quyết định không thành tựu. Năm căn tín,v.v..., ở nơi người thiện căn bị mất, quyết định không thành tựu. Căn vô lậu thứ nhất, ở nơi tất cả các loài dị sanh và các bậc đã trú quả, quyết định không thành tựu. Căn vô lậu thứ hai, ở nơi tất cả các loài dị sanh, kiến đạo, vô học đạo, quyết định không thành tựu. Căn vô lậu sau cùng, ở nơi tất cả các loài dị sanh và hữu học vị, quyết định không thành tựu.
Các trường hợp mà trên đây không loại trừ,[139] nên biết, cứ theo như trước mà nói, các căn đều quyết định thành tựu.
/18cd/.Nếu thành tựu lạc, thân, đều cùng thành tựu bốn.
a.Nếu thành tựu lạc căn, quyết định bốn căn cùng thành tựu; đó là, mạng, ý, xả và lạc căn nầy.
b.Nếu thành tựu thân căn, cũng quyết định bốn căn cùng thành tựu; đó là mạng, ý, xả và thân căn nầy.
/19ab/.Thành tựu mắt,v.v..và hỷ, đều cùng thành tựu năm.
a. Nếu thành tựu căn con mắt, quyết định năm căn cùng thành tựu; đó là mạng, ý, xả, thân và căn con mắt.(Nếu thành tựu) các căn tai, mũi, lưỡi, nên biết, quyết định cũng cùng thành tựu năm căn; bốn căn trước giống ở căn con mắt, thứ năm là chính căn được thành tựu đó.
b. Nếu thành tựu hỷ căn, cũng quyết định thành tựu năm căn; đó là mạng, ý, xả, lạc và hỷ căn.
Nếu sanh vào đệ nhị thiền mà chưa chứng được đệ tam thiền tức là khi xả bỏ cõi dưới, chưa chứng cõi trên, thành tựu loại lạc căn nào? Nên nói, thành tựu nhiễm ô lạc căn ở đệ tam thiền; không thành tựu các căn thiện, vô phú vô ký.
/19cd/.Nếu thành tựu khổ căn; kia cùng thành tựu bảy
Nếu thành tựu khổ căn, quyết định cùng thành tựu bảy căn; đó là, thân, mạng, ý và bốn thọ căn; trừ ưu.
/20ab/.Nếu thành tựu nữ nam ưu;Tín, v.v..cùng thành tám:
a. Nếu thành tựu nữ căn, quyết định đồng thời thành tựu tám căn; đó là, bảy căn như ở khổ và thứ tám là nữ căn.
b. Nếu thành tựu nam căn, quyết định đồng thời thành tựu tám căn; đó là bảy căn như ở khổ, thứ tám là nam căn.
c. Nếu thành tựu ưu căn, quyết định đồng thời thành tựu tám căn; đó là bảy căn như ở khổ, thứ tám là ưu căn.
d. Nếu thành tựu các căn, tín, v.v..., quyết định đồng thời cũng đều thành tựu tám căn; đó là mạng, ý, xả và năm căn, tín v.v...
/20cd/.Hai vô lậu, mười một; Sơ vô lậu, mười ba:
a. Nếu thành tựu cụ tri căn, quyết định đồng thời thành tựu 11 căn; đó là mạng, ý, lạc, hỷ, xả và năm căn tín, v.v... cùng cụ tri căn.
b. Nếu thành tựu dĩ tri căn, quyết định đồng thời thành tựu 11 căn; mười căn như trên cùng với dĩ tri căn.
c. Nếu thành tựu vị tri căn, quyết định đồng thời thành tựu 13 căn; đó là thân, mạng, ý, khổ, lạc, hỷ, xả, năm căn tín v.v... và vị tri căn.
Trong 22 căn, số lượng các căn thành tựu tối thiểu là bao nhiêu?
Văn Tụng.
Hán:
T29n1560-p0312b17 : 極 少 八 無 善 成 受 身 命 意
T29n1560-p0312b18 : 禺 生 無 色 界 成 善 命 意 捨
Âm Hán:
Cực thiểu bát vô thiện. Thành thọ, thân, mạng, ý.
Ngu sanh vô sắc giới. Thành thiện mạng ý xả.[140]
Việt dịch:
Cực thiểu, tám, vô thiện Thành thọ, thân, mạng, ý.
Ngu sanh cõi vô sắc Thành thiện mạng ý xả /21/.
Luận giải thích:
/21ab/.Cực thiểu, tám, vô thiện, thành thọ, thân, mạng, ý.
Chúng sanh đã đoạn thiện căn gọi là vô thiện.[141] Với chúng sanh đó, số căn tối thiểu được thành tựu[142] là tám; đó là năm thọ và thân, mạng, ý. Thọ là năng thọ, năng lãnh nạp[143] vậy; hoặc là thọ tánh[144] nên gọi là thọ. Như dựa vào tánh viên mãn[145] mà lập tên gọi là viên mãn[146].
/21cd/.Ngu sanh cõi Vô sắc thành thiện mạng ý xả.
Cũng như hàng chúng sanh đoạn thiện căn thành tựu tối thiểu tám căn, hàng ngu sanh ở Vô sắc, cũng thành tựu tám căn. Ngu là dị sanh, chưa thấy Đế lý vậy. Những gì là tám? Năm căn tín, v.v... mạng, ý, xả căn. Năm căn tín, v.v... luôn luôn là thiện nên gọi chung là thiện.
Nếu vậy, nên bao gồm luôn cả ba vô lậu căn.
Không thể được. Ở đây, căn cứ vào tám căn (mà nói là thiện, không căn cứ vào 22 căn). Lại nói ngu sanh Vô sắc giới vậy (tức biết rằng, không thành tựu ba vô lậu căn).
6. Chư căn cực đa.
Trong 22 căn, số lượng các căn thành tựu tối đa là bao nhiêu?
Văn Tụng:
Hán:
T29n1560-p0312b19 : 極 多 成 十 九 二 形 除 三 淨
T29n1560-p0312b20 : 聖 者 未 離 欲 除 二 淨 一 形
Âm Hán:
Cực đa thành thập cửu nhị hình trừ tam tịnh
Thánh giả vị ly dục Trừ nhị tịnh nhất hình.[147]
Việt dịch:
Cực đa là mười chín Nhị hình trừ ba tịnh
Bậc thánh chưa ly dục Trừ hai tịnh, nhất hình /22/.
Luận giải thích:
/22ab/.Cực đa là mười chín Nhị hình trừ ba tịnh.
Chúng sanh nhị hình đầy đủ các căn mắt, v.v..., trừ ba căn vô lậu, thành tựu 19 căn còn lại. Vô lậu gọi là tịnh vì lìa xa hai sự trói buộc (tương ưng phược và sở duyên phược). Nhị hình tức là dị sanh cõi Dục, chưa ly dục tham, cho nên thành tựu 19 căn.
Chỉ có nhị hình thành tựu đầy đủ 19 căn mà thôi ư?
/22c/.Bậc thánh chưa ly dục.
Các bậc thánh chưa ly dục cũng thành tựu đầy đủ 19 căn; đó là thánh hữu học chưa lìa dục tham thành tựu cực đa cũng đầy đủ 19 căn.
/22d/.Trừ hai tịnh, nhất hình.
Trừ hai tịnh tức trừ hai vô lậu và hàng chúng sanh nhất hình: ở tại kiến đạo, trừ dĩ tri căn và cụ tri căn; nếu ở tu đạo, trừ vị tri căn và cụ tri căn. Hai căn nữ nam, tuỳ theo đó, trừ đi một loại vì các bậc thánh, không có nhị hình.
Nhơn phân biệt về giới, căn, phi căn khác nhau, đã bàn luận chi tiết về 22 căn.
Thuyết nhất thiết hữu bộ câu xá luận (q.3)
[1] Ht. Phẩm Phân biệt căn, 分 別 根 品. Luận Tạp Tâm gọi là 行 品 Phẩm Hành. Luận Chánh Lý gọi là 差 別 品 Phẩm Sai biệt. Sở dĩ có ba tên gọi khác nhau, Quamg kýq.3, tr. 55c23 giải thích rằng, Luận nầy gọi Phẩm Phân biệt căn, ý nói về tác dụng của căn tức hiển bày tác dụng quyết định; luận Tạp Tâm nói Hành có nghĩa hoặc là tạo tác hoặc là đổi dời, tức hiến bày tác dụng không quyết định; luận Chánh Lý nói Sai biệt tuy cũng hiển bày tác dụng không đồng nhất nhưng lại còn hoặc hiển bày tính có hay không có hoặc hiển bày tính hữu vi hay vô vi khác nhau tức cũng hiển bày tác dụng chẳng phải là quyết định.
[2] Quang ký, q.3.tr.56c09, có giải thích, thể của căn vượt trội gọi là tối thắng; dụng vượt trội gọi là tự tại; thể dụng vượt trội gọi là quang hiển.
[3] Ht. 此 增 上 義 誰 望 於 誰, thử tăng thượng nghĩa thuỳ vọng ư thuỳ. Cđ. 於 中 何 根 何 處 自 在, ư trung, hà căn hà xứ tự tại.
[4] Truyền thuyết, ở đây, chỉ cho quan điểm của Tỳ bà sa.
[5] Skt. caturṣve artheṣu pañcānām ādhityaṃ dvayoḥ kila/ catuṇṇāṃ pañcakāṣṭānāṃ saṃkleśavyavadānayoḥ//1/
[6] Ht. 有 情 異, hữu tình dị. Cđ. 眾 生 差 別 Chúng sanh sai biệt. Skt. sattvabheda, khác nhau về giới tính.
[7] Ht. 分 別 異, phân biệt dị. Cđ. 相 貌 不 同, tướng mạo bất đồng. Skt. sattvavikalpabheda, khác nhau về hình tướng.
[8] Nguyên Hán: phiến-đề 扇搋 (Skt. ṣanḍa), bán-trạch 半擇 (paṇḍaka), nhị hình 二形 ( ubhayavyañjana). Ht. 本 性 損 壞 扇搋半擇 及 二形 人 , bốn tánh tổn hoại phiến đề bán trạch cập nhị hình nhơn. Quang ký q.3. tr.5612 “nên biết, phiến đề hay bán trạch đều gọi là huỳnh môn. Phiến đề (phiến đề ca) là không có căn; có hai loại: bổn tánh phiến đề và tổn hoại phiến đề. Bán-trạch (bán-trạch-ca) có ba loại: một tật đố nghĩa là khi thấy việc hành dâm, nam thế mới khởi; hai, bán nguyệt nghĩa là nữa tháng là đàn ông, nữa tháng là đàn bà; ba, quán sái nghĩa là khi tắm rửa nam thế mới khởi. Cđ. 自 性 黃 門 tự tánh huỳnh môn.
[9] Ht.雜 染 法, tạp nhiễm pháp. Skt. sāṃkleśika.
[10] Ht. 不 律 儀, bất luật nghi. Cđ. 不 護, bất hộ. Skt. asaṃvara.
[11] Ht. 清 淨 法, thanh tịnh pháp. Skt. vaiyavadānika.
[12] Ht. 律 儀, luật nghi. Cđ. 守 護, thủ hộ. Skt. saṃvara
[13] Ht. 得 果, đắc quả. Cđ. 至 果, chí quả.
[14] Ht. 離 染, ly nhiễm. Cđ. 離 欲, ly dục. Skt. vairāgya.
[15] Ht. 眾 同 分 chúng đồng phần. Cđ. 聚 同 分 tụ đồng phần. Skt. nikāya-sabhāga
[16] Ht. 能 持, giữ gìn. Cđ. 執 持, chấp trì. Skt. saṃdhāraṇa.
[17] Ht. 能 續, năng tục. Cđ. 相 應, tương ưng. ( Skt. saṃbandha)
[18] Ht.能 續 後 有, tiếp nối đời sau. Cđ. 後 有 相應, tương ưng đời sau. Quang ký q.3,tr75a12, giải thích, tăng thượng cho việc tiếp nối đời sau nghĩa là hỗ trợ cho tâm thức của trung ấm hoặc tương ưng với ái, hoặc tương ưng với nhuế, v.v.. dể tạo thành sanh hữu. (Skt. punarbhavasaṃbandha ).
[19] Ht. 自 在 隨 行, tự tại tuỳ hành. Cđ. 隨 從 自 在, tuỳ tùng tự tại. (Skt. vaśībhāvānuvartana).
[20] Kiền-đạt-phược 健達縛 (gandharva): tầm hương, thực hương; đây gọi là thân trung ấm, ý sanh thân, thân do ý thức sanh ra.
[21] Ht. 於 一 心 內 隨 一 現 前 謂 或 愛 俱 或 恚 俱 等 tâm tương ưng với một tính chất mà hiện tiền.... Cđ. 於 二 意 中 隨 一 現 前,或 與 欲 相 應或 與 瞋 相 應 trong hai ý, tuỳ thuộc vào một mà hiện tiền hoặc tương ưng với Dục hoặc tương ưng với Sân.
[22] Skt. svārthopalabdhyādhipatyāt sarvasya ca ṣaḍindriyam/ strītva-puṃsvādhipatyāt tu kāyāt struruṣendriye//2/
[23] Shutārtha: chỉ Sautrāntika (Kinh lượng bộ). Quang ký, đây chỉ thức kiến gia.
[24] Ht. 不 共 事 bất cọng sự. Cđ. 不 共 因 bất cọng nhân.
[25] Bảo sớ q3.tr.513b18. Đây là câu hỏi của các luận Sư Tỳ Bà Sa, nếu không chấp nhận quan điểm của chúng tôi rằng, mắt có công năng đạo dưỡng thân và có tính chất cá biệt, v.v... để nói là có tác dụng tăng thượng, thế thì luận sư Kinh Bộ của các ông nói thế nào?
[26] Ht.了 別 各 別 境 識 (các) thức nhận biết từng đối tượng riêng biệt, tức năm thức thân, mỗi mỗi đều duyên với cảnh riêng của nó; chẳng hạn, thức con mắt duyên với sắc, v.v.... Cđ. đắc tự trần 得 自 塵.
[27] Ht. 了 別 一 切 境 識 thức nhận biết tổng tướng của tất cả các pháp, chỉ cho thức thứ sáu, đệ lục ý thức. Cđ. 得 一 切 塵 đắc nhất thiết trần. Skt. manovijñāna
[28] Ht. 最 勝 自 在 tối thắng tự tại. Cđ. 最 勝 主 tối thắng chủ. Skt. (adhika-prabhutva)
[29] Ht. 眼 於 所 發 了 色 識 中 căn con mắt đối với việc phát sanh liễu sắc thức (thức con mắt). Cđ. 眼 於 得 色 中 nhãn ư đắc sắc trung.
[30] Ht. 了 眾 色 為 通 因, làm nhơn chung cho các thức liễu biệt chúng sắc. Quang ký q3.tr57b21 “謂 一 眼 根 能 與 了 別 眾 色 諸 識 為通 因 。 。 。 ... ( hàng 26), 色 即 不 然.... (一) 非 通 因 謂 清 等 色 但 能 生 清 等 識, 不 能 生 黃 等 識...”, một căn con mắt có thể làm nhơn chung cho các thức nhận biết các màu sắc...... sắc thì không thể làm nhơn chung, nghĩa là, (các) sắc xanh, (v.v...) chỉ sanh khởi nhận thức về xanh, không thể sanh khởi nhận thức về vàng, v.v....
[31] Cđ. trong bản Ngài Chơn đế có thêm “隨 其 增 損 tuỳ kỳ tăng tổn”
[32] Skt. nikāyasthitisaṃkleśavyavadānādhipatyâtḥ/ jīvitaṃ vedanāḥ pañca śraddhādyāś cendriyaṃ matāḥ// 3/
[33] Nguyên Hán: chúng đồng phận trụ 眾同分住. Skt. nikāyasthiti, sự tồn tại của thân.
[34] Skt. ājñāsyāmyākhyamājñātāvīndriyaṃ tathā/ uttarottarasamprāpt-nỉrvā-ṇādyādhipatyataḥ//4/
[35] Ht. 後 後 道 Quang ký, tr57c19, giải rằng, căn thứ hai là là hậu đạo của căn thứ nhất; căn thứ ba là hậu đạo của căn thứ hai, cho nên gọi là hậu hậu đạo. Skt. uttarottarasaṃprāpti.
[36] Hán: vị tri đương tri căn 未知當知根. Skt. anājñātamājñāsyāmi-indriya: quan năng có tác dụng rằng “Tôi sẽ biết điều chưa được biết.”
[37] 現 法 樂 住 Hiện pháp lạc trú, 現 法 安 樂 住 Hiện pháp an lạc trú, 現 法 喜 樂 住 hiện pháp hỷ lạc trú, là một trong bốn loại thiền định cõi Sắc, một trong bảy tên gọi chỉ cho Thiền định; có nghĩa là an trú trong niềm vui hiện tại của pháp. Skt. dṛṣṭa-dharma-sukha-vihāra
[38] Bảo Sớ, q.2, tr. 514a20. Luận chủ giả lập chủ khách để giải thích nạn vấn. Đây là căn cứ vào Hữu Bộ để nêu câu hỏi.
[39] Bảo Sớ, q.2,tr.514a28. Luận chủ căn cứ vào Số luận để nêu câu hỏi.
[40] Quang ký, q.3. ,tr.58b09. đây là quan điểm chính thức của Hữu Bộ.
[41] cittāśrayas tadvikalpaḥ sthitiḥ saṃkleśa eva ca/ sahāro vyavadānaṃ ca yāvatā tāvad indriyam//5/
[42] Ht. 所 依 sở y, nơi nương tưạ, chỗ y cứ. Cđ. 依,y. Skt. āśraya, y, sở y, y chỉ.
[43] Ht. 有 情 本 hữu tình bổn. Cđ. 眾 生 類 chúng sanh loại. Skt. maula sattvadravya: thực thể căn bản của hữu tình.
[44] Ht. 淨 資 糧 tịnh tư lương. Cđ. 清 淨 資 糧 thanh tịnh tư lương. Skt. vyavadāna-saṃbhāra.
[45] Ht. Tất cả những chữ Nó được đánh dấu hoa thị (*), nguyên hán văn là chữ “thử, 此”, là đại từ thay cho “sáu nội xứ” tức chỉ cho thực thể căn bản của hữu tình.
[46] Ht.成 清 淨 thành thanh tịnh. Cđ. 實 清 淨 thật thanh tịnh.
[47]Quang ký, q.3,tr.58b21. Đây là cách lập căn của Thức kiến gia.
[48] Skt. pravṛtter āśrayotpttisthitipratyupabhogataḥ/ caturdaś tathānyāni nivṛtter indriyāṇi vā//6/
[49] Ht. 流 轉 lưu chuyển, Luận Chánh lý q.09, tr379c05 nói “lưu chuyển có nghĩa là sanh tử tiếp nối không ngừng”; Bà sa q.100,tr.515b09,"lưu chuyển có nghĩa là lại phải tiếp tục chịu trôi lăn trong sanh tử" . Cđ. 生 死 sanh tử. Skt. pravṛtti.
[50] Ht. 還 滅 hoàn diệt, Luận Chánh lý q.9,tr.379c10, nói “hoàn diệt có nghĩa là sanh tử đã ngừng lại”; Bà sa q.100, tr.515b10,"hoàn diệt có nghĩa là tiến đến niết bàn". Cđ. 解 脫 giải thoát. Skt. nivṛtti.
[51] Ht. định căn. Skt. Samādhīndriyaṃ.
[52] Quang ký q.3,tr.58c16, "nếu cho rằng ngữ cụ là căn thì tại sao khi mới sinh, có lưỡi, lại không biết nói".
[53] Skt. duḥkhendriyam aśātā yā kāyikī vedanā sukham/ śātā dhyāne tṛtīye tu caitasī sā sukhendriyam//7/
anyatra sā saumanasyaṃ aśātā caitasī punaḥ/ daurmanasyam upekṣā tu madhyā ubhayī avikalpanāt//8/
[54] Ht. thân bất duyệt 身 不 悅, thân cảm thấy khó chịu. Cđ. 非 所 僾 phi sở ái (thân thọ). Skt. asāta (cảm giác) khó chịu, không khoan khoái (nơi thân).
[55] Ht. thân duyệt 身 悅 thân cảm thấy khoan khoái. Cđ. 所 愛 sở ái (thân thọ).
[56] Ht. 喜 根 hỷ căn. Skt. Saumanasyendriyaṃ.
[57] Chữ "vân vân" chỉ ba quả vị trước; đó là dự lưu, nhất lai và bất lai.
[58] Skt. dṛgbhāvavāśaikṣapathe nava trīṇi /8cd/
[59] Quang ký q.3, tr.60a28, " Tại Kiến đạo vị tức 15 sát na tâm gồm tám nhẫn bảy trí đều có những điều chưa từng biết về tám đế, khổ, tập, diệt, đạo, ở cõi trên cũng như cõi dưới, nay có hành tướng đang biết chuyển khởi, gọi đó là căn vị tri đương tri..
[60] Quang ký q.2, tr.60b07, "Tại Tu đạo vị đối với tám đế trên dưới, không có những điều chưa biết mà nay biết vì thường xuyên liễu tri tám đế một cách đầy đủ, chỉ đoạn trừ các phiền não khác tức đối với các đế lại thường xuyên liễu tri cho nên gọi hành tướng đó là căn dĩ tri.
[61] Skt. ājñātam ity avagatam ājñātāvaḥ: biết rõ điều (Thánh đế) đã được biết, nên gọi là cụ tri. Trong đó, ājñātāvata (cụ tri), được phân tích, ājñāta (cái đã được biết) và hậu tố āva được hiểu là avagama (sự thấu hiểu). Quang ký q.2, tr.60c01, "Ở tu đạo vị, còn có phiền não, đối với lý tứ đế, chưa có hiểu biết rằng -biết mình đã biết-; tại vô học đạo, do không còn các hoặc nên đối với lý tứ đế có được hiểu biết rằng -biết mình đã biết- cho nên gọi là biết".
[62] Skt. ājñātam avituṃ śīlam asyeti vā: hoặc có tính cách để hộ trì cái đã được biết. Quang ký q.2, tr.60c05, "hoặc thường xuyên huân tập cái biết nầy khiến đã trở thành tánh gọi đó là cụ tri tức căn cứ vào sự huân tập mà giải thích chữ cụ".
[63] Skt. amalaṃ trayam/ rūpīṇi jīvitaṃ duḥkhe sāsravāni dvidhā nava //9b-d/
[64] Ht. Các Luận sư khác, theo Quang ký 3, tr.60c22, nói đó là Hoá địa bộ (Mahīsāsaka) tức Tỳ-bà-sa bà-đề . Skt. Vibhậyvādin, chính xác là Phân biệt luận giả, hay Phân Biệt Luận sư; Bảo Sớ q.3,tr516c10, Hán dịch : Bà-sa Tỳ- bà-xà-bà-đề.
[65] Ht. 全 無 toàn vô. Cđ. 一 切 種 無 Nhất thiết chủng vô. Skt. sarveṇa sarvāṇi na santi.
[66] Ht. 異 生 dị sanh. Cđ. 凡 夫 眾 類 phàm phu chúng loại. Skt. pṛthagjana.
[67] Ht. 內 nội. Cđ. 在 正 法 內 tại chánh pháp nội. Skt. ābhyantaraka.
[68] Ht. 外 ngoại. Cđ. 在 正 法 外 tại chánh pháp ngoại. Skt. bāhyaka.
[69] Hán: tập 集 (samudaya), một 沒 (astagama), vị 味 (āsvāda), quá hoạn 過患 (ādīnava), xuất ly 出離 (niḥsaraṇa), thứ tự quán pháp.
[70] Skt. vipāko jīvitaṃ đvedhā dvādaśa antyāṣṭakād ṛte/ daurmanasyāc ca (...) /10a-c/
[71] Ht. 壽 行 thọ hành. Cđ. 命 行 mạng hành. Quang Ký q3, tr.61b03 giải rõ, “A- la-hán kéo dài mạng sống hoặc trăm năm hoặc ngàn năm, v.v... đều do hiện tại bố thí y áo, v.v... mà kéo dài thọ mạng từ trước. Đó không phải là dị thục; vậy với mạng căn như vậy, cái gì là dị thục ?”
[72] Bản luận (Mūlaśāstra), chi luận Phát trí, quyển 12 (T26n1544, tr.981a12)
[73] Ht. 僧 眾 Tăng chúng. Cđ. 大 眾 Đại chúng.
[74] Ht. 邊 際 biên tế. Cđ. 遠 際 viễn tế: ở đây, là định cao nhất trong các định sắc giới gọi là biên tế định. Skt. prāntakoṭika.
[75] Nguyên Hán: chư 諸; bản khác chép: vị 謂. Trong ngữ pháp dịch Phạn của Huyền Trang, chư thường dùng để dịch đại từ liên hệ Skt. yaḥ
[76] Ht. 諸 我 能 感 富 異 熟 業 chư ngã năng cảm phú dị thục nghiệp. Cđ. 業 應 熟 感 富 樂 nghiệp ưng thục cảm phú lạc.
[77] Ht. 富 異 熟 phú dị thục. Cđ. 富 樂 果 報 phú lạc quả báo. Skt. bhogavipāka: kết quả báo ứng là sự thọ dụng.
[78] Ht. 壽 異 熟 thọ dị thục. Cđ. 壽 命 果 報 thọ mạng quả báo. Skt. āyurvipāka.
[79] H. 引取受用 dẫn thủ thọ dụng. Skt. ākṛṣya pratisaṃvedayate, sau khi lôi kéo trở lại (dị thục tàn dư ấy) rồi thọ dụng (lãnh thọ).
[80] Ht. 尊 者 妙 音 Tôn giả Diệu Âm. Cđ. 大 德 瞿 沙 Đại đức Cù Sa.
[81] Quang ký, tr. 62c27: Luận Chủ đồng ý với quan điểm của Kinh bộ nên nói “應 如 是 說, nên nói như thế nầy”
[82] Quang Ký q3, tr. 63a01: “Các luận sư Kinh bộ cho rằng, căn cứ trên ý nghĩa thế phần tồn tại không gián đoạn của các căn đại chủng, mà giả lập mạng căn.”
[83] Ht. 因 論 生 論 Nhơn luận sanh luận. Cđ. 從 問更 起 別 問 Tùng vấn cánh khởi biệt vấn.
[84] Ba châu : Nam thiệm bộ châu, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hoá châu. Bắc Câu-lưu châu không có phật pháp nên không có A-la-hán.
[85] Ht. 男 女 相 續 nam nữ tương tục. Cđ. 男 女 nam nữ.
[86] Ht. 不 時 解 脫 得 邊 際 定 諸 阿 羅 漢 bất thời giải thoát, đắc biên tế định, chư A-la-hán. Cđ. 非 時 解 脫 阿 羅 漢 俱 解 脫 人 得 遠際 三 摩 提 phi thời giải thoát a la hán, câu giải thoát nhơn đắc viễn tế tam ma đề. Giải thoát có nhiều cách phân loại. Tựu trung đều có hai: 1. Thời giải thoát: chỉ cho năm bậc A-la-hán đầu phải chờ đủ duyên mới trừ được phiền não chướng. 2. Bất thời giải thoát: chỉ cho bậc bất động pháp A-la-hán, hàng thứ sáu không phải đợi đầy đủ duyên mà lúc nào cũng có khả năng nhập các loại định, tâm không còn phiền não chướng. Hoặc là : 1.Tâm giải thoát tức tâm xa lìa các phiền não tham, v.v... 2. Huệ giải thoát tức dùng trí huệ quán chiếu, xa lìa vô minh. Hoặc 1. Hụệ giải thoát chỉ cho vị A lan hán chưa đến chỗ chứng được định Diệt tận. 2. Câu giải thoát chỉ cho vị A la hán đã đến chỗ chứng được định Diệt tận. Quang Ký q3, tr.63a28 giải thích rằng, phải là người lúc nào cũng giải thoát, không phải giải thoát có lúc (tức chỉ trong lúc nhập định); và phải chứng đệ tứ định (tức giải thích theo bản của ngài Huyền Trang). Bảo Sớ q.3, tr. 519b18 giải thích, lúc nào cũng giải thoát, trong huệ giải thoát và câu giải thoát thì chỉ là câu giải thoát, các vị A-la-hán chứng được định thứ tư (tức dựa theo bản của ngài Chơn Đế).
[87] Tỳ-bà-sa 126 (T27n1545, tr.657b6): nêu 14 giải thích.
[88] Quan điểm thứ 11 trong Tỳ-bà-sa.
[89] Điểm thứ 6 trong Tỳ-bà-sa.
[90] Ht. 又 謂 成 立 先 自 稱 言 Hựu vị thành lập, tiên tự xưng ngôn. Cđ. 復 次 世 尊 見 立 義 言 phục thứ Thế tôn kiến lập nghĩa ngôn.
[91] Tỳ bà sa 126 (T27n1545, tr.657c06), thuyết thứ 6.
[92] Ht. 能 伏 năng phục. Cđ. 自 勝 能 tự thắng năng.
[93] Ht. 順 喜 受 業 thuận hỷ thọ nghiệp. Cđ. 有 業 於 喜 受 好 hữu nghiệp ư hỷ thọ hảo. Skt. saumanasyavedanīya-karma, nghiệp dẫn đến cảm thọ hỷ.
[94] Skt. sukhavedanīyasparśa, xúc dẫn dến cảm thọ lạc.
[95] Tức hỷ, xả cũng căn cứ vào dị thục mà nói thuận hoặc căn cứ vào tương ưng, nói thuận.
[96] Ht. 一 經 說 故 nhất kinh thuyết cố. Cđ. không có câu nầy.
[97] Ht. 無 逃 難 處 作 此 通 經 理 實 何 因 憂 非 異 熟, vô đào nạn xứ tác thử thông Kinh, lý thật hà nhân, ưu phi dị thục ? Cđ. 由 無 能 故 皆許 如 此 有 何 別 道 理 能 立 憂 非 果 報, do vô năng cố giai hứa như thử, hữu hà biệt đạo lý, năng lập ưu phi quả báo ?
[98] Skt. parikalpaviśeṣa, tư duy đặc thù.
[99] Skt. nimitta, tướng, hay nhân. Những nơi khác, Ht. dịch là đại suy tướng. Cđ. dịch là đại biến dị tướng, hay sự.
[100] Hán: dĩ thục 已熟; Skt. vipakva: trạng thái (quả) đã chín muồi.
[101] Skt. (... ) tat tv ekaṃ savipākaṃ daśa dvidhā//10d/ manonyavittiśraddhādi (...)
[102] Hán: cường tư 強思; Skt. vikalpaviśeṣa, sự trổi bật của tư, tư duy đặc thù.
[103] Skt. aṣṭakaṃ kuśalaṃ dviddhā/ daurmanasyaṃ mano’nyā ca vittis traiddhānyad ekadhā//11/
[104] Skt. kāmāptam amalaṃ hitvā rūpāptaṃ strīpumindriye/ duḥkhe ca hitvārūpyāptaṃ sukhe cāpohya rūpi ca//12/
[105] Ht. 無 處 無 容 女 身 為 梵 有 處 有 容 男 身 為 梵 vô xứ vô dung nữ thân vi Phạm; hữu xứ hữu dung nam thân vi Phạm. Cđ. 無 處 無 理, 女 人 作 梵; 有 處 有 理 丈 夫 作 梵, vô xứ vô lý, nữ thân tác Phạm; hữu xứ hữu lý, trượng phu tác Phạm. Quang ký q.3, tr.66a28 “必 無 有 處 必 無 容 有 女 身 為 梵 然有 處 所 然 約 容 有 男 身 為 梵 Tất vô hữu xứ. Tất vô dung hữu nữ thân vi Phạm. Nhiên hữu xứ sở, nhiên ước dung hữu nam thân vi Phạm. Skt, asthānam anavakāśo yat strī brahmatvaṃ kārayiṣyati, không có trường hợp nào, cũng không có hợp lý nào, rằng nữ thân sẽ trở thành địa vị Phạm thiên.
[106] Ht. 別 有 男 相 謂 欲 界 中 男 身 所 有 Biệt hữu nam tướng vị Dục giới trung nam thân sở hữu. Quang ký q.3, tr.66b02: “Đại Phạm vương có tướng mạo người nam ở cõi Dục, không có trong hình loại thân nữ cho nên nói là nam; chứ chẳng phải có nam căn.” Cđ. 於 彼 別 有 丈 夫 相, 於 欲 界 但 是 丈 夫 所 得, ở cõi Sắc đặc biệt chỉ có tướng mạo trượng phu; ở cõi Dục có nam căn mới có tướng đàn ông. Bảo Sớ q3. tr. 521a04: “ tuy không có nam căn nhưng có tướng mạo thân nam cho nên nói là nam; chẳng phải như cõi Dục, không có nam căn tức không có tướng người nam.” Ở đây, thấy có sự khác nhau giữa bản của Ht. và bản của Cđ.; và cũng thấy có sự khác nhau giữa Quang ký và Bảo sớ.
[107] Ht. 見 所 斷 kiến sở đoạn. Cđ. 見 所 滅 kiến sở diệt.
[108] Skt. manovittitrayaṃ tredhā dviheya durmanaskatā/ nava bhāvanayā pañca tvaheyāny api na trayam//13/
[109] Ht. 無 過 法 vô quá pháp. Cđ. 無 過 失 法 vô quá thất pháp. Skt. nirdoṣa, không lỗi lầm, không tai hại.
[110] Skt. kāmeṣv ādau vipāko dve labhyete nopapādukaiḥ/ taiḥ ṣaḍ vā sapta vāṣṭau vā ṣaḍ rūpeṣu ekam uttare//14/
[111] Hán: tục sanh thời 續生時. Skt. pratisandhikāle, trong giai đoạn nối kết hai đời sống, chỉ thời đoạn thụ thai.
[112] Ht.化 生 hoá sanh. Cđ. 化 生 人 hoá sanh nhân. Skt. upapāduka.
[113] Skt. avyañjana, không có dấu hiệu phân biệt giới tính.
[114] Hán: nhất hình 一形; Skt. ekavyañjana, chỉ có một dấu hiệu giới tính, một căn.
[115] Skt. Hán: nhị hình 二形; Skt. ubhayavyañjana, có cả hai dấu hiệu giới tính, hai căn.
[116] Ht. Quang ký q3.67a03, loài hoá sanh do phước báo tốt lành chiêu cảm quả báo, há lẽ lại có loại thân thể nghiệp chướng phi nam phi nữ ư?
[117] Ht. 上 thượng “Trên”. Cđ. 餘 一 dư nhất. Bảo sớ q3.tr521b13, ở trong bài tụng nói Thượng (Trên) tức ý nói do định lực thù thắng và xứ sở thù thắng (sanh thắng); chẳng phải trên là trên cõi Dục và cõi Sắc; không có chỗ nào khác. Skt. uttara, phía trên, cao hơn.
[118] Ht. 定 勝 định thắng. Cđ. 三 摩 跋 提 異 tam ma bát đề dị.
[119] Skt. nirodhayaty uparamann ārūpye jīvitaṃ manaḥ/ upekṣāṃ caiva rūpe’ ṣṭau kāme daśa navāṣṭau vā//15/ kramamṛtyau tu catvari śubhe sarvatra pañca ca/15a-b/
[120] Cđ. 於 根 伽 蘭 他 (陀) 中 簡 擇 一 切 根 法 應 如 此 知 Ư căn già lan tha (Đà, trong ba Tạng Tống, Nguyên, Minh) trung, giản trạch nhất thiết căn pháp, ưng như thử tri.
[121] Skt. navāptỉ aniyaphalayoḥ saptāṣṭanavabhir dvayoḥ//16c-d/ ekādaśabhir arhatvam uktaṃ tvekasya saṃbhavāt/17a-b/
[122] Ht.無 間 道 vô gián đạo. Cđ. 次 第 道 thứ đệ đạo. Skt. ānantarya-mārga.
[123] Ht. giải thoát đạo. Skt. vimukti-mārga.
[124] Ht. 引 因 dẫn nhân. Quang ký q.3, tr.67b03, Với quả Dự lưu, vô gián đạo đoạn trừ các hoặc để thành tựu Ly hệ, căn vị tri làm dẫn nhân. Dẫn nhân tức đồng loại nhân, dẫn dắt ly hệ đắc khởi sanh đẳng lưu sỹ dụng quả.
[125] Ht. 依 因 y nhân. Quang ký, nt. giòng 07, giải thoát đạo, trên đường tiến đến thành tựu quả ly hệ, căn cụ tri làm y nhân. Y nhân tức năng tác nhân. Y có nghĩa là duy trì; đồng thời duy trì cả ly hệ đắc nên gọi là Y nhân.
[126] Ht. 阿 羅 漢 果 a la hán. Skt. arhattva.
[127] Chứng dắc theo thứ lớp. Skt. ānupūrvaka.
[128] H. 世 間 道 thế gian đạo còn gọi 有 漏 道 hữu lậu đạo. Skt. laukiko-mārgaḥ.
[129] H. 出 世 間 道 xuất thế gian đạo, còn gọi 無漏 道 vô lậu đạo. Skt. lokottaro-mārgaḥ.
[130] Sự chứng đắc vượt bậc. Skt. bhūyovītarāga.
[131] Ht. 不 還 果 bất hoàn quả. Cđ. 阿 那 含 果 a na hàm quả. Skt. anāgāmin.
[132] Ht.全 離 欲 貪 toàn ly dục tham. Cđ. 已 離 欲 貪 dĩ ly dục tham. Skt. vīta-rāga.
[133] Đây chỉ Phát trí luận, quyển 15, T26n1544, tr.994c1.
[134] Ht. 補 特 伽 羅 Bổ đặc già la, 富 特 伽 羅 Phú đặc già là, 弗 伽 羅 Phất già la, 福 伽 羅 Phước già la có nghĩa là con người, chúng sanh.. Theo quan điểm của Độc Tử Bộ 犢子 部 Vātsīputrīya, đàng sau thân xác ngũ uẩn nầy, có một bổ đặc già la tồn tại dưới dạng “chẳng phải ngũ uẩn, chẳng lìa ngũ uẩn,非 即 非 離 五 蘊 ” chịu tất cả các nghiệp của sanh tử luân hồi cho đến cả niết bàn tịch tịnh. Nhưng bổ-đặc-già-la trong đây chỉ cho một trong tám bậc Thánh, thường gọi là “Tám Bổ-đặc-già-la.” Skt. pudgala/ aṣṭau pudgalāḥ.
[135] Ht. 無 學 位 vô học vị, tức ở địa vị vô học. Đây chỉ cho vị A La hán 阿 羅 漢; S: arhat.
[136] Vị ấy nếu bằng sơ và nhị thiền tái chứng A-la-hán, khi ấy hỷ căn hiện tiền; nếu bằng tam thiền, khi ấy lạc; bằng tứ thiền, do xả căn.
[137] Quang ký 1 (T41n1821, tr.68a25): “Không có trường hợp, bằng đệ tam tĩnh lự chứng quả Bất hoàn, mà sau đó lại có thể thối thất.”
[138] Skt. upekṣājīvitâmnoyukto’ vaśyaṃ trayānvitaḥ//17c-d/ caturbhiḥ sukhakāyābhyāṃ pañcabhiś cakṣurādimān/ saumanasyī ca duḥkhī tu sapta-bhiḥ strīndriyādimān//18/aṣṭābhiḥ ekādaśabhis tv ājñājñātendriyātvitaḥ / ājñāsyāmīndriyopetas trayodaśabhir anvitaḥ//19/
[139] Hán: phi già vị; Skt. apratiṣiddhāsvavasthāsu; trong các trường hợp không bị bác bỏ.
[140] Skt. sarvālpair niḥśubho’ ṣṭābhir vinmanaḥkāỵaīvitaiḥ/ yuktaḥ bālas tathārūpye upekṣāyurmanaḥśubhaiḥ//20/
[141] Ht. 無 善 vô thiện. Skt. niḥśubha.
[142] Ht. 成 thành tựu. Cđ. 相 應 tương ưng.
[143] Ht. 領 納 lãnh nạp. Skt. vedayate: nó cảm thọ.
[144] Ht. 受 性 thọ tánh. Skt. vedana.
[145] Ht. 圓 滿 性 viên mãn tánh. Skt. saṃpadana.
[146] Ht. 圓 滿 名 viên mãn danh. Skt. saṃpad.
[147] Skt. bahubhir yukta ekānnaviṃśatyāmalavarjitaiḥ/ dviliṅgaḥ āryo rāgī ekaliṅgadvayamalavarjitaiḥ//22/