• http://www.
  • http://chuaadida.com/vu-lan/
  • http://www.
  • http://www.
chuaadida.com
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia
  • Tin Phật Giáo
    • Phật Giáo Úc - Tân Tây Lan
    • Phật Giáo Với Xã Hội
    • Tin Viên Tịch & Tưởng Niệm
  • Sinh Hoạt Chùa A Di Đà
  • Phật Pháp
    • Nghi Lễ
    • Giáo Lý
    • Bồ Đề Tâm
  • Lịch Sử Phật Giáo
    • Nghiên Cứu Phật Giáo
    • Nhân - Vật
    • Phật - Bồ Tát - Thánh Chúng
  • Tam Tạng Kinh Điển
    • Tranh Phật Giáo
    • Sách - Truyện Tích
    • Những Lời Phật Dạy
  • Chuyên Đề
    • Xuân Cửa Thiền
    • Phật Đản - An Cư
    • Vu Lan
    • Pháp Khí
  • Văn Hóa Phật Giáo
    • Thi Ca - Châm Ngôn - Sáng Tác
    • Kiến Trúc
    • Tự Viện
  • Môn Phong Pháp Phái
    • NGỮ LỤC
    • Giai Thoại Nhà Thiên
    • Tổ Sư
Thông tin liên hệ

Tel: (+02) 87046317

Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com

chuaadida.com Kính chào chư Tôn đức, Quí nam nữ Phật tử, Quí thiện trí thức gần xa, Kính chúc Qúy vị An Lành - Phát nguyện: Nổ lực tinh tấn tu hành giải thoát thân tâm khỏi vòng sanh tử. KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC, QUÍ NAM NỮ PHẬT TỬ, QUÍ THIỆN TRÍ THỨC, QUÍ ĐỘC GIẢ GẦN XA, THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ KIẾT TƯỜNG NHƯ Ý
Tìm
  • Trang chủ
  • Môn Phong Pháp Phái
  • Tổ Sư

Tiểu sử Đại lão HT.Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống PGVNTN (1891-1973)

Chùa A Di Đà | 12/3/2018 | 0 Bình luận

Chín năm (1964-1973) ở ngôi vị lãnh đạo tối cao này, Ngài đã nhiếp phục được nội ma, ngoại chướng và vô cùng sáng suốt để nâng con thuyền Giáo Hội đến một thời kỳ hưng thịnh, đóng góp xứng đáng công sức vào trang lịch sử vàng son của Phật Giáo Việt Nam thời hiện đại.


Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 42 dòng Liễu Quán, tục danh Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17/11/Tân Mão (1891), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Toán và cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình, bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi Ngài đã tinh thông Nho học rõ lẽ xuất xứ ở đời, nhưng với chí khí xuất trần, muốn vươn tới một phương trời cao rộng Ngài đã xin phép song thân được xuất gia tầm sư học đạo.
 
Năm 1905, Ngài xuất gia tại Tổ đình Tường Vân, làng Dương Xuân Hạ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, và đã thọ giáo với Đại lão Hòa thượng Thanh Thái, hiệu Phước Chỉ, là đệ tam Tổ chùa Tường Vân, đời thứ 41 Thiền phái Lâm Tế. Ngài được ban pháp danh là Trừng Thông, tự Chân Thường.
 
Với bẩm tánh thuần thành, cốt cách đạo vị, Ngài đã vượt mọi thử thách cam go trong bước đầu hành đạo, tinh cần học hỏi chánh pháp với các bậc thạc đức cao Tăng trong chốn thiền môn, chuyên tâm thực hành giới-định-tuệ. Đến năm 19 tuổi (1910), đạo phong ngày càng tỏa rạng, Ngài được đặc cách miễn tuổi để thọ Cụ Túc giới tại Đại giới đàn Vĩnh Gia do tổ Vĩnh Gia đương vi Đàn Đầu, Hòa thượng Tâm Truyền đương vi Yết Ma và Hòa Thượng Hoàng Phú đương vi Giáo Thọ. Sau khi đắc giới Cụ Túc, Ngài trở về trú xứ phát nguyện lạy bộ Vạn Phật, mỗi chữ mỗi lễ, trong suốt ba năm liền.
 
Năm Bính Thìn (1916), Ngài nhận chức trú trì chùa Phước Huệ, thuộc phủ Tuy Lý Vương, thôn Vỹ Dạ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
 
Đến năm Canh Thân (1920) ngài đắc pháp với Hòa thượng Bổn sư, được ban Đạo hiệu là Tịnh Khiết, kế vị Tổ đời thứ 42 thuộc Thiền phái Lâm Tế với bài kệ phú pháp như sau:
 
澄通心法本同然
付汝真常道志堅
非有非無所見
寂然開悟主人前.
 
“Trừng Thông tâm pháp bản đồng nhiên.
Phó nhữ Chân Thường đạo chí kiên.
Phi hữu phi vô phi sở kiến.
Tịch nhiên khai ngộ chủ nhơn tiền”.
 
Năm Nhâm Tuất (1922), sau khi cư tang nghiệp sư, Ngài cùng Hòa thượng Huệ Pháp theo học lớp Cao đẳng Phật học tại chùa Thiện Hưng, tham cứu kinh điển cùng Ngài Phước Huệ, chùa Thập Tháp trong suốt thời gian năm năm.
 
Năm Quý Dậu (1933), Hòa thượng Trừng Hương - Tịnh Hạnh, trụ trì chùa Tường Vân viên tịch, Môn Phái cung thỉnh Hòa Thượng đảm nhận chức vị trụ trì kế tiếp bào huynh.
 
Đầu năm Ất Hợi (1935), Sơn Môn tăng già Thừa Thiên mời Ngài giảng dạy và quản nhiệm lớp Trung Đẳng Phật Học tại chùa Tường Vân, một thời gian sau đó thì lớp này được chuyển lên sát nhập vào Phật Học Viện Tây Thiên.
 
Năm Mậu Dần (1938), sau khi xây dựng xong chùa Hội Quán Từ Đàm, An Nam Phật Học Hội cung thỉnh Hòa Thượng kiêm nhiệm trụ trì và Chứng Minh Đạo Sư cho Hội.
 
Đây cũng là thời kỳ Hòa Thượng thường giao lưu thân thiết với chư vị tôn túc trong Sơn Môn, như Hòa Thượng Đạo Chơn - Chánh Thống, Hòa Thượng Trừng Thanh - Giác Bổn… Ngoài ra, ngài còn có một người bạn tâm giao nữa là chí sĩ Sào Nam - Phan Bội Châu, lúc bấy giờ cụ Phan đang bị thực dân Pháp đưa về “an trí” tại Bến Ngự nên cụ thường lui tới viếng thăm và đàm đạo với Hòa Thượng. Trong một dịp cụ Phan vào chùa vấn đạo, Hòa Thượng đã biếu cụ một cây hoa ngọc lan để cụ đem về trồng nơi cụ đang bị “an trí”. Sau đó, Phan tiên sinh đem tặng Hòa Thượng một bài thơ tán thán mật hạnh vô vi của Ngài như sau:
 
Tiền thân chủng xuất tự bồng lai
Di hưởng bồ đề viện lý tài
Tố nhụy quang tranh đông dạ tuyết
Kỳ phương phẩm đoạt lãnh đầu mai
Hương chân vương giả thiên thùy thưởng
Trang tỷ thường nga nguyệt ám xai
Duy Phật tùng lai năng thức Phật
Ân cần huệ ngã thử hoa khai.
 
Năm Canh Thìn (1940), Sơn Môn tăng già Thừa Thiên cung thỉnh Hòa Thượng làm Giám Đốc Đạo Hạnh cho Viện Cao Đẳng Phật Học tại chùa Bảo Quốc. Đây là Trung tâm đào tạo Tăng tài cao nhất của Phật Giáo miền Trung lúc bấy giờ. Phật Học Viện đã mở đến lớp Siêu Đẳng và chương trình giảng dạy dự kiến kéo dài đến 10 năm.
 
Các Học Tăng xuất thân từ Viện Cao Đẳng này, về sau đều là những bậc Tăng già lỗi lạc của ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam hiện đại, như quý Hòa thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa, Trí Quang, Thiện Siêu, Thiện Minh, Trí Tịnh, Trí Thành, Trí Thuyên, Hành Trụ… Qua năm Ất Dậu (1945) thì Đại Tòng Lâm Kim Sơn cũng phải giải thể vì những biến động chính trị đang liên tiếp xảy ra trên khắp đất nước.
Trở lại giữa năm Giáp Thân (1944), Sơn Môn tăng già Thừa Thiên cung thỉnh Hòa Thượng làm Yết Ma cho Giới Đàn tại chùa Thuyền Tôn. Giới Đàn này HT.Trừng Thủy - Giác Nhiên, trụ trì chùa Thuyền Tôn làm Đàn Đầu; HT.Như Thông - Đắc Ân, trụ trì chùa Quốc Ân làm Giáo Thọ và là Giới Đàn được khai giới lần cuối cùng trước khi cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ vào cuối năm Bính Tuất (1946). (Hòa Thượng Thích Mật Thể đắc Thủ Sa-di trong Giới Đàn này).
 
Đầu năm Đinh Hợi (1947), đất nước Việt Nam chuyển mình qua một giai đoạn lịch sử đầy biến động, đông đảo chư vị tăng già và cư sỹ tâm huyết đều nhận thấy ở giai đoạn này Phật Giáo cần phải tìm phương tiện khế lý, khế cơ để điều hợp mọi năng lực cho công cuộc hoằng dương và hộ trì chánh pháp. Nhờ tinh thần dõng mãnh và chí nguyện son sắt của quý ngài mà “Sơn Môn Tăng Già Trung Việt” hình thành và toàn thể chư Tăng đại biểu ở miền Trung đã long trọng suy tôn Hòa Thượng lên ngôi vị TÒNG LÂM PHÁP CHỦ TRUNG VIỆT.
 
Trong thời gian bốn năm (1947-1951) ở ngôi vị Pháp Chủ, Hòa Thượng đã không ngừng nỗ lực cùng với An Nam Phật Học Hội xiển dương chánh pháp, đào tạo tăng tài, tổ chức các Đạo Tràng Phật Học, các Khuôn Tịnh Độ, các đoàn thể Thanh Thiếu niên Gia Đình Phật Tử trên khắp 17 tỉnh miền Trung.
 
Có thể nói hơn ba thập kỷ, kể từ khi cao trào Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam phát khởi, đến giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo đầy uy đức và vô cùng khôn khéo của Hòa Thượng mà Phật Giáo tại miền Trung và Huế đã phát triển đến mức khả quan. Sự nỗ lực lớn lao ấy, cũng đã thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần và hoạt động của các tập đoàn tăng già và cư sỹ khắp cả 3 miền Bắc-Trung-Nam Việt Nam càng thêm đoàn kết, gắn bó keo sơn.
 
Năm Kỷ Sửu (1949), Sơn Môn tăng già Thừa Thiên cung thỉnh Hòa Thượng làm Đàn Đầu Hòa Thượng cho Đại Giới Đàn Hộ Quốc tại chùa Bảo Quốc, Huế với nhị vị HT.Trừng Thủy - Giác Nhiên, trụ trì chùa Thuyền Tôn làm Yết Ma, HT.Tâm Ấn - Viên Quang, khai sơn chùa Pháp Uyển Châu Lâm, làm Giáo Thọ.
 
Đây là một Giới Đàn được tổ chức sau hơn 5 năm bị gián đoạn, kể từ Giới Đàn tại chùa Thuyền Tôn năm Giáp Thân, 1944.
 
Ngày 06/05/1951 (Tân Mão), Ngài chứng minh và chủ tọa Hội nghị thành lập Giáo hội Tăng già Trung Việt tại Chùa Linh Quang, Huế, năm mươi mốt đại biểu của sáu hội Phật giáo Nam, Trung, Bắc họp tại chùa Từ Đàm, Huế quyết nghị thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Ngài được suy tôn Hội chủ. Đến ngày 07/09/1952, Ngài được bầu làm chủ tọa Đại Hội Phật Giáo Tăng Già toàn quốc họp tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
 
Sự ra đời của Giáo Hội Tăng Già Trung Việt là bước tiến vững chắc dưới sự lãnh đạo tối cao của Hòa Thượng. Hội nghị này không chỉ đã duyên khởi cho Giáo Hội Tăng Già Việt Nam và Giáo Hội Tăng Già hai miền Nam-Bắc tiếp tục ra đời sau đó, mà còn thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của Phật Giáo Việt Nam trước sự kiềm chế khắt khe mà các chính quyền lúc bấy giờ vẫn áp đặt qua Đạo Dụ số 10.
 
Cũng trong năm này, Hội Nghị Phật Giáo Toàn Quốc Việt Nam được long trọng tổ chức tại chùa Từ Đàm, Huế từ ngày 01 đến ngày 04/04/Tân Mão (ngày 06 đến ngày 09/05/1951). 51 vị Đại Biểu của 6 tập đoàn tăng già và cư sỹ (3 của tăng già và 3 của cư Sỹ) đã đồng tâm, nhất trí “thống nhất Phật Giáo” cả 3 miền Bắc-Trung-Nam Việt Nam thành một Tổng Hội dưới danh hiệu TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM (do bị kiềm chế bởi Đạo Dụ số 10, nên Phật Giáo Việt Nam giai đoạn này không được xưng danh là Giáo Hội). Hội nghị đã long trọng suy tôn Hòa Thượng lên ngôi vị HỘI CHỦ TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam có một Hội nghị được tổ chức trên bình diện quốc gia. Hội nghị không chỉ kế thừa mạng mạch truyền thống từ chư Lịch Đại Tổ Sư, mà còn thể hiện niềm tin sâu sắc cho Tăng Ni và Phật Tử vào tiền đồ hưng long của đạo pháp.
 
Vào ngày 01/05/Tân Mão (05/06/1951), trên cương vị Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Hòa Thượng vào chứng minh và chủ tọa hội nghị thành lập Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tại chùa Hưng Long ở đường Ngã Sáu, Chợ Lớn. Hội nghị đã suy tôn HT.Đạt Thanh lên ngôi vị Pháp Chủ lâm thời, TT.Đạt Từ làm Trị Sự Trưởng và TT.Trí Ấn - Nhật Liên làm Tổng Thư Ký.
 
Đến ngày 07/08/Tân Mão (07/09/1951), Hòa Thượng được cung thỉnh ra chứng minh và chủ tọa hội nghị thành lập Giáo Hội Tăng Già Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Hội nghị đã suy tôn HT.Tuệ Tạng lên ngôi vị Thượng Thủ.
 
Qua năm Quý Tỵ (1953), Đại Hội kỳ II Giáo Hội Tăng Già Nam Việt lại cung thỉnh Hòa Thượng vào chủ tọa hội nghị và chứng minh lễ suy tôn HT. Thiện Hải - Huệ Quang lên ngôi vị Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt (Trong nhiệm kỳ I, 1951-1953, HT.Đạt Thanh được cung thỉnh làm Pháp Chủ lâm thời tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn. Ngài Đạt Thanh là Trưởng Đoàn Tăng Già Nam Việt ra tham dự Hội Nghị Phật Giáo Toàn Quốc Việt Nam tại chùa Từ Đàm, Huế năm Tân Mão, 1951).
 
Năm Bính Thân (1956), Đại hội kỳ II Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam khai mạc tại chùa Phước Hòa, trú sở của Hội Phật Học Nam Việt và họp ở chùa Ấn Quang từ ngày 21 đến 25/02/Bính Thân, (01 đến ngày 05/04/1956). Trong nhiệm kỳ II, nhân sự của Tổng Hội có phần thay đổi, nhưng Đại Hội vẫn tin tưởng và thành kính cung thỉnh Hòa Thượng lưu lại ngôi vị Hội Chủ. Đại Hội đã suy tôn HT.Thiện Hải - Huệ Quang làm Phó Hội Chủ. (Đại Hội này, tuy được tổ chức trong thời kỳ đất nước bị qua phân, nhưng phần đông chư Tăng trong Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt và Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt đã di cư vào Nam, nên vẫn có đầy đủ cả 6 tập đoàn).
 
Đây cũng là thời kỳ Phật Giáo tại miền Nam Việt Nam đang bị chính quyền Ngô Đình Diệm chủ trương tiêu diệt nên Phật Giáo Đồ nhiều nơi đã bị đàn áp, khủng bố. Tình hình đang có những diễn biến phức tạp và bất lợi cho Phật Giáo. Biện pháp rất trắng trợn và lộ liễu đầu tiên của chính quyền Ngô Đình Diệm là phủ nhận ngày đại lễ Phật Đản bằng cách loại bỏ ngày này ra khỏi danh sách các ngày lễ lớn của quốc gia được nghỉ trong năm.
 
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo tối cao và vô cùng sáng suốt của Hòa Thượng, mọi hoạt động của Phật Giáo vẫn không ngừng phát triển. Tờ Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam, cơ quan hoằng pháp của Tổng Hội ra đời, và những buổi phát thanh chương trình Phật Giáo trên Đài Phát Thanh Sài Gòn lúc bấy giờ đã tạo niềm tin vững chắc cho tăng ni và phật tử vào ngôi vị lãnh đạo tối cao của ngài.
 
Vào ngày 10/11/1956, với tư cách Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Hòa Thượng cùng với HT.Phó Hội Chủ Thiện Hải - Huệ Quang hướng dẫn phái đoàn Phật Giáo Việt Nam sang tham dự Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới lần thứ IV tại Nepal. Sau khi hội nghị bế mạc, Hòa Thượng cùng phái đoàn trở về thủ đô New Delhi, quan sát Hội Nghị Văn hóa Thế Giới, xem cuộc triển lãm nghệ thuật Phật Giáo và đi chiêm bái nhiều Phật tích ở Ấn Độ.
 
Trong dịp này, Hòa Thượng có cảm tác hai bài thơ chữ Hán, nội dung như sau:
 
1. Đạp tuyết phong vân quá hải hà
Du du hốt kiến lâu đài đa
Bảo tháp thất tầng kim tú lệ
Bồ đề thiên trượng ngọc bích hoa
Cảnh tối thâm u tần đáo tự
Duy thường ái tịch niệm Thích Ca
Nhân duyên Bồ Tát khai phương tiện
Nhiếp tận chúng sanh lễ Phật Đà.
 
2. Lâm quang tịnh mậu trước thi biên
Phật quốc ký du hữu đại duyên
Tận địa kim ngân triệt vũ trụ
Thanh phong châu ngọc mãn nhân gian
Bồ đề thành đạo trang nghiêm cảnh
Lộc Uyển sơ niên chuyển pháp tiên
Ấn Độ hoa khai chân tịnh xứ
Kỳ Viên trùng kiến tợ thiền thiên.
 
Năm Kỷ Hợi (1959), Đại Hội kỳ III Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam họp tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn. Thêm một lần nữa, chư tôn đức trong hội nghị vẫn tin tưởng và thành kính cung thỉnh Hòa Thượng tiếp tục đảm nhận ngôi vị Hội Chủ.
 
Sau Đại Hội này thì mọi sinh hoạt của Phật Giáo ngày càng chịu nhiều áp lực từ phía chính quyền. Những cuộc đàn áp, khủng bố liên tiếp xảy ra, nặng nề nhất là ở các tỉnh thuộc Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Ban Mê Thuột…
 
Trước tình hình nghiêm trọng ấy, vào ngày 02/02/1962 (06/01/Nhâm Dần), nhân danh Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Hòa Thượng đã ký một lúc hai văn thư gởi cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cho Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có đính kèm một tập hồ sơ ghi hơn 50 vụ Phật Giáo Đồ bị khủng bố, đàn áp tại các tỉnh nói trên. Trong văn thư, Hòa Thượng đã có lời chân thành khuyến cáo Tổng Thống và Quốc Hội: “Tôi muốn tránh cho lịch sử dân tộc một chấm đen, đồng thời muốn ngăn ngừa một tai họa cho quốc gia, khi mà hàng phật tử thấy cần bảo vệ đúng mức tôn giáo của mình”.
 
Thế nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm chẳng hề quan tâm đến những lời lẽ chân thành nhưng cũng không kém phần cương quyết của ngài. Sự khủng bố, đàn áp lại càng diễn ra khốc liệt hơn. Vì thế, cuộc đấu tranh của Phật Giáo giữa mùa hè năm Quý Mão (1963) đã bùng phát mạnh mẽ.
 
Hai ngày sau vụ đàn áp đẫm máu tại Đài Phát Thanh Huế, Bản Tuyên Ngôn 5 điểm của 5 cấp Trị Sự lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam được long trọng công bố tại chùa Từ Đàm, Huế vào ngày 10/05/1963, đã chính thức “mở màn” cho đại cuộc đấu tranh.
 
Suốt 178 ngày đêm diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt của Phật Giáo Việt Nam, trên cương vị lãnh đạo tối cao, bằng trí tuệ, tài năng và đức độ cao thâm của một bậc Tăng già 72 tuổi, Hòa Thượng đã dấn thân không mỏi mệt để dẫn dắt cho phong trào. Dù bị bạo quyền giam giữ, đọa đày, dù phải chịu đựng vô vàn gian khó, nhưng Hòa Thượng vẫn luôn đồng cam cộng khổ cùng chư tôn đức tăng ni và phật tử để phong trào sớm ngày thành tựu.
 
Ngày 01/11/1963, cuộc đấu tranh thành công, mở ra cho Phật Giáo Việt Nam con đường phát triển đầy sinh lực.
 
NGÔI VỊ TĂNG THỐNG GHPGVN:
 
Ngày 04/01/1964, Đại Hội của 11 Giáo Phái và Hội Đoàn Phật Giáo Nam-Bắc Tông đã long trọng tổ chức tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn. Đại Hội đã đồng tâm nhất trí thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Bản Hiến Chương của Giáo Hội ra đời, đã kế tục một cách tốt đẹp tinh thần “thống nhất” của Hội Nghị Phật Giáo Toàn Quốc Việt Nam tại chùa Từ Đàm, Huế năm Tân Mão, 1951. Đại Hội cũng đã long trọng suy tôn Hòa Thượng lên ngôi vị ĐỆ NHẤT TĂNG THỐNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT.
 
 
HT Thích Tịnh Khiết
 
Cũng trong năm Giáp Thìn (1964), Đức Tăng Thống được cung thỉnh làm Đàn Đầu Hòa Thượng tại Đại Giới Đàn được tổ chức tại Việt Nam Quốc tự, Sài Gòn.
 
Ngôi vị Tăng Thống là kết tinh công hạnh của Ngài đã tận tụy suốt đời trong sứ mệnh phụng sự đạo pháp, dân tộc, nhân loại và chúng sinh.
 
Chín năm (1964-1973) ở ngôi vị lãnh đạo tối cao này, Ngài đã nhiếp phục được nội ma, ngoại chướng và vô cùng sáng suốt để nâng con thuyền Giáo Hội đến một thời kỳ hưng thịnh, đóng góp xứng đáng công sức vào trang lịch sử vàng son của Phật Giáo Việt Nam thời hiện đại.
 
Chín năm Hòa Thượng ở ngôi vị Tăng Thống, cũng là chín năm đất nước Việt Nam đắm chìm trong khói lửa của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam-Bắc. Chắc chắn Ngài thấy rõ và biết rõ hơn ai hết nỗi thống khổ của hàng triệu sinh linh.
 
Vì thế, trong suốt nhiều năm, bằng uy đức và hạnh nguyện của một vị lãnh đạo tôn giáo tối cao, Hòa Thượng đã không ngừng kêu gọi các nhà lãnh đạo đất nước, các thế lực tham chiến hãy chấm dứt chiến tranh, hóa giải hận thù và lập lại hòa bình để đem lại sự sống còn cho dân tộc, cho đất nước.
 
Trong Thông Điệp Đầu Xuân năm Mậu Thân (1968), có đoạn Ngài kêu gọi: “Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào Việt Nam hãy sáng suốt để tự cứu mình và cứu dân tộc. Sự chia rẽ tôn giáo, đảng phái, địa phương là mối nguy lớn làm tê liệt dân tộc ta, làm cho chúng ta mất chủ quyền và mất ánh sáng. Phải nhìn nhận rằng, nếu các thế lực bên ngoài có thể nhúng tay vào nội tình Việt Nam, phần lớn lỗi là ở chúng ta không biết thương nhau, không biết tới sự sống đích thực và kiêu hùng của dân tộc mà chỉ biết nghĩ tới quyền lợi và tự ái riêng tư”.
 
Đối với chính quyền của hai miền Nam-Bắc lúc bấy giờ, Ngài cũng kêu gọi đến tình dân tộc và lương tri của các nhà lãnh đạo.
 
Trong Thông Điệp ngày 20/06/1968, Ngài kêu gọi: “Chúng tôi kêu gọi Chính phủ của hai miền Nam-Bắc Việt Nam và các thế lực quốc tế có liên hệ tới cuộc chiến tranh Việt Nam, hãy ngưng những cuộc bắn giết dân chúng Việt Nam, hãy ngưng việc xô đẩy nhân dân Việt Nam vào vòng chiến tranh một cách cưỡng bách, ngụy trang dưới hình thức pháp lý hoặc lý tưởng này nọ. Xin hãy thành thật dùng “đường lối ngoại giao hòa bình” để sớm giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, mà cơ hội đã mở ra tại hòa hội Paris”.
 
Cũng trong năm này, Đức Tăng Thống làm Đàn Đầu Hòa thượng cho Đại Giới Đàn tổ chức tại Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang. Đây là Giới Đàn quy tụ hơn 500 Giới Tử ở khắp cả hai miền Vạn Hạnh và Liễu Quán lúc bấy giờ.
 
Trong Thông Điệp Phật Đản 2513, Kỷ Dậu (1969), được gọi là “Thông Điệp Vì Sứ Mệnh Hòa Bình và Hóa Giải”, Ngài đã khẳng định: “Lịch sử đã chứng minh, dân tộc Việt Nam có sức hóa giải bền bỉ phi thường. Sức hóa giải đó là bản chất của dân tộc và cũng chính là bản chất Phật Giáo, vì Phật Giáo được xây dựng trên tinh thần trí tuệ, từ bi và hùng lực. Việt Nam vượt qua được giai đoạn bị đồng hóa là nhờ ở đức bao dung, sự đãi lọc và lòng kiên trì phát triển. Chính nhờ ở những căn bản quý giá đó mà đã hơn một lần Phật Giáo trợ duyên cho dân tộc hóa giải những lối sống xuất thế và nhập thế của các luồng tư tưởng Đông Phương, tạo ra sự quân bình tư tưởng cho Việt Nam dưới thời tự chủ Lý-Trần, kéo dài trên ba thế kỷ”.
 
Trong Thông Điệp gửi Hội Nghị Quốc Tế Về Tôn Giáo Và Hòa Bình tại Thụy Sĩ, tháng 10/1970, bằng những lời lẽ xác thực của hiện tình thế giới, Ngài nhấn mạnh: “Chỉ có hòa bình mới cứu được nhân loại trong cơn khủng hoảng hiện nay. Chỉ có hòa bình mới đem lại sự cảm thông, sự tương thân tương ái, sự thi đua phát triển giữa các đại-tiểu quốc, cũng như các giai tầng xã hội. Chỉ có hòa bình mới đem lại cho con người cơ hội vận dụng sức mạnh khoa học, kỹ thuật để phụng sự tốt đẹp cho con người”.
 
Đối với những nhà lãnh đạo các nước đang viện trợ, điều khiển cuộc chiến tranh tàn khốc tại Việt Nam, qua Thông Điệp Phật Đản 2516, năm Nhâm Tý (1972), Ngài tha thiết kêu gọi: “Tôi kêu gọi Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc, ba đại cường đang ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc chiến tại Việt Nam và đang cung cấp vũ khí cho các phe đối chiến, hãy vì sự an nguy của thế giới, vì sự diệt chủng của một dân tộc mà tìm sự thỏa hiệp với nhau để ngưng cung cấp chiến cụ vào Việt Nam, rồi dùng thế lực của mình mà sớm kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam. Tôi kêu gọi toàn thế giới, nhất là tổ chức Liên Hiệp Quốc, hãy tích cực hơn nữa trong công cuộc vận động chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, để tạo sự quân bình cho thế giới”.
 
Trước nỗi thống khổ và loạn lạc vì chiến tranh chưa dứt, với lòng từ bi vô lượng, trong Thông Điệp Đầu Xuân năm Quý Sửu (1973), Ngài thiết tha kêu gọi: “Cuộc đời hiện hữu là một bể khổ mênh mông, tôi xin tất cả chúng ta, đừng bao giờ làm khổ mình, làm khổ thân quyến, làm khổ đồng loại, làm khổ chúng sinh. Vì tất cả đều đáng thương, đều cần phải sống xứng đáng cho trọn kiếp người, tất cả đều đáng tôn trọng và cần được phụng sự”.
 
Những lời kêu gọi tha thiết của ngài ở trên, cũng là pháp âm cuối cùng trước khi ngài an nhiên đi vào cõi Niết Bàn tịch tịnh.
 
NHIẾP HÓA ĐỒ CHÚNG:
 
Hơn 60 năm xả thân hoằng hóa, ngài đã thế độ cho gần 50 vị đệ tử xuất gia (gồm chư vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni); Ngài cũng đã truyền Ngũ Giới và Thập Thiện cho hàng vạn đệ tử tại gia.
 
Trong hàng đệ tử xuất gia của ngài, có nhiều vị đã làm nên những sự nghiệp lớn lao cho ngôi nhà Phật Giáo, như quý HT.Tâm Minh - Chơn Thiệt, Tâm Trí - Minh Châu, Tâm Từ - Chơn Quả, Tâm Ngộ - Chơn Thiện, Tâm Phú - Chơn Kim, Tâm Thành - Chơn Thức, Tâm Tân - Chơn Tế… và chư vị Tỳ kheo ni như Sư Bà Tâm Huệ - Viên Minh, Tâm Quang - Minh Đức, Tâm Định - Cát Tường, Tâm Từ - Diệu Tấn… (7)
 
Trong sự nghiệp nhiếp hóa đồ chúng, Hòa Thượng là vị Bổn Sư rất gần gũi và thương yêu đồ chúng. Ngài luôn tùy căn cơ, trình độ của mỗi người mà khuyên răn, dạy bảo. Chỉ một lời dạy ngắn gọn của Ngài “Gắng tự làm chủ lấy!” đã trở thành câu châm ngôn quý báu cho các đệ tử tâm niệm trong sự tu tập hàng ngày.
 
Đối với hàng tứ chúng xuất gia, ngài thường nhắc nhủ rằng: “Đạo Phật tồn tại không chỉ y cứ vào hình thức chùa tháp, lễ nghi, kinh điển, mặc dầu kinh điển là kim chỉ nam để hướng dẫn cho ta trên đường đi tới đạo quả Bồ đề. Nhưng sự tồn tại đích thực chính là thể hiện đạo phong, những nếp sống gương mẫu của các bậc Tăng già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ chánh pháp, để chánh pháp mãi tồn tại với con người, với cuộc đời và làm lợi ích cho chúng sinh”.
 
Đối với hàng phật tử tại gia, là những người có nhiều bổn phận phải lo toan hàng ngày, ngài chỉ dạy cho một phương pháp tu tập vô cùng giản dị, mọi người ai cũng làm được là “Mỗi tối trước khi đi ngủ, hãy ngồi thẳng trên giường, chí thành niệm 10 lần danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật”.
 
Trong những năm tháng cuối đời, khi tuổi cao sức yếu, ngài thường nhắc nhủ các hàng đệ tử “Trước, ta dạy các con bằng lời nói, có khi bằng roi vọt, nhưng nay thì ta dạy bằng sự im lặng”. Sự im lặng của ngài, là một bài pháp vô ngôn vi diệu đã thấm đẫm trong tâm thức và sự nghiệp hành đạo của nhiều thế hệ Tăng Ni, Phật tử từ ấy cho đến ngày nay.
 
Ngài thường sống với mật hạnh vô vi, nên không lưu lại bài kệ phú pháp nào, nhưng qua bài thơ ngài cảm tác sau đây cũng đã thể hiện rõ ràng tôn chỉ “Tự chủ - Tự giác” và đủ làm ánh đuốc soi sáng cho các hàng đệ tử trên bước đường tu tập, hành trì:
 
Pháp thân vô trọng diệc vô khinh
Chỉ vị đa sanh hoặc tập tành
Nhất niệm hồi quang tri lụy kiếp
Lục căn thanh tịnh liễu tâm kinh
Ưng tiêu vọng tưởng chân vô ngã
Thỉ ngộ thuyền quang hiệp thế tình
Dục thám huyền vi công tự tỉnh
Hà lao hướng viện vấn thuyền huynh.
 
Tạm dịch:
 
Pháp thân không trọng cũng không khinh
Phân biệt do mê hoặc nghiệp thành
Một niệm hồi quang, lụy chướng dứt
Sáu căn thanh tịnh rõ tâm kinh
Nên tiêu vọng tưởng chơn vô ngã
Mới biết đạo kia hiệp thế tình
Muốn ngộ lẽ mầu tâm tự tỉnh
Ích chi đến việc hỏi thuyền huynh.
 
NHỮNG NGÀY THÁNG CUỐI ĐỜI:
 
Suốt những năm tháng ở ngôi vị lãnh đạo tối cao, Đức Tăng Thống được chư tôn giáo phẩm cung thỉnh vào an trú trong các chùa viện lớn ở Sài Gòn như Xá Lợi, Ấn Quang, Quảng Hương Già Lam… để điều hành mọi Phật sự trọng đại của Giáo Hội.
 
Nhưng bất ngờ, vào cuối năm Nhâm Tý (1972), lúc Ngài đang ở Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Ngài lại tỏ ý là muốn trở về Huế. Đến ngày 15/11/ Nhâm Tý (20/12/1972), lúc chư tôn giáo phẩm trong Hội Đồng Lưỡng Viện đến làm lễ cung tiễn Ngài về Huế, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo có lời tác bạch: “Xin cung thỉnh Đức Tăng Thống sau khi về thăm Cố đô ít ngày, rồi xin Ngài trở lại thủ đô để lãnh đạo Giáo Hội”.
 
Ngài thong thả đáp dứt khoát: “Thôi, tôi không vô nữa”.
 
Đức Tăng Thống về tịnh dưỡng tại chùa Tường Vân. Trong thời gian này, Ngài thường bảo các Thị Giả đưa ngài đi thăm viếng các Tổ Đình Từ Đàm, Quốc Ân, Bảo Quốc, Thuyền Tôn, Từ Hiếu, Kim Tiên… rồi đi thăm các Phật Học Viện và Ni Viện ở Huế.
 
Vào tết Nguyên Đán năm Kỷ Sửu (1973), chư tôn đức lãnh đạo miền Vạn Hạnh và Giáo Hội tỉnh Thừa Thiên, Huế vào đảnh lễ vấn an và chúc thọ Ngài. Như dự tri được khoảnh khắc từ giã chư tôn giáo phẩm, môn đồ thất chúng, nên Ngài đã ân cần phú chúc và nhỏ nhẹ ban lời huấn dụ: “Tôi thấy tôi sức khỏe đã kém nhiều, tôi khuyên các tăng ni, phật tử cố gắng lo việc tu hành để báo đáp công ơn Tam Bảo, thương mến và đoàn kết với nhau để xây dựng Giáo Hội và góp phần vào nền hòa bình dân tộc!”.
 
Chư tôn đức tăng ni và môn đồ thất chúng ở Thừa Thiên, Huế không ai ngờ rằng những lời Ngài ân cần dạy bảo lúc bấy giờ, lại là lời di huấn cuối cùng của Ngài.
 
Đến ngày Rằm tháng Giêng năm Quý Sửu (1973), thì pháp thể Hòa Thượng khiếm an. Sau một tuần thuốc thang tịnh dưỡng, vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 23 tháng Giêng năm Quý Sửu (25/02/1973), Ngài an nhiên xả bỏ báo thân, thể nhập Niết Bàn.
 
Theo Danh tăng Phật giáo Việt Nam

Bài Liên Quan:

  • Sàu gòn, Huế: Tưởng niệm lần thứ 43 Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết
  • Hành trạng Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết
  • Tiểu Sử 5 Vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
  • Di bút Đức Đệ Nhất Tăng Thống thượng Tịnh hạ Khiết: Thiền Môn Pháp Kệ
  • Thơ: Cuộc đời và Hành trạng Đức Trưởng lão HT Thích Tịnh Khiết

các bài khác

  • HỌC IM LẶNG 25/1/2021
  • PHÓNG RỘNG TÌNH THƯƠNG 25/1/2021
  • Bình Phước: Lạc thành tượng Phật ngồi cao 73 m tại chùa Phật Quốc Vạn Thành 25/1/2021
  • 'Đạo sư' Thinley Nguyên Thành lừa bịp các tín đồ như thế nào? (Phần 3) 25/1/2021
  • Những tác hại khủng khiếp khi thức khuya bạn cần biết 24/1/2021
  • Phật Giáo Và Vấn Đề Kỳ Thị Chủng Tộc, Giai Cấp, Giới Tính 24/1/2021
  • Tản mạn về Đức Phật Di Lặc và mùa xuân 24/1/2021
  • Phật dạy các Tỳ kheo cái gì không phải của mình thì nên buông 24/1/2021
  • Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki, Người Đưa Thiền Vào Mỹ 22/1/2021
  • Tượng Phật Di Lặc và những điều Phật tử cần biết 22/1/2021
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *
  
HỘI AN, QUẢNG NAM: THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH CHUẨN BỊ TỔ CHỨC VỀ NGUỒN, HỘI THẢO KHOA HỌC

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Viện Nghiên cứu tôn giáo phối hợp với Ban điều hành Thiền phái...

Xem chi tiết

  • Tin xem nhiều
  • Phản hồi
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch

28/9/2014
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân

31/10/2014
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?

5/9/2014
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu

6/11/2014
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)

27/8/2014
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

6/8/2014
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát

6/8/2014
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ

9/9/2014
Toàn cảnh Chùa A Di Đà
Toàn cảnh Chùa A Di Đà

9/9/2014
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập

12/12/2014
Lê Mai Anh
2/1/2021
Mấy bạn lên án thầy Nguyên Thành là "mượn đạo tạo đời" ghê lắm, tôi còn tưởng đâu thầy hô hào kêu gọi thu hàng trăm triệu mỗi người, ngờ đâu có trăm ngàn mỗi tháng! Cộng với những khoản liệt kê ra vẫn chưa là một góc nhỏ với việc đi cúng đền miễu hàng trăm triệu mỗi lần mà rước họa vào thân. Mà chính bạn Ngô Đức Hiếu cũng công nhận là thầy "truyền bá Phật pháp là rất tốt" mà, sao cứ so đo vài trăm ngàn nhỉ? Cúng dường mà tâm keo kiệt hối tiếc thì chẳng trách sao làm ăn lận đận, khó khăn mãi (Kinh Mahachauna đã xác quyết như vậy)!
Nguyễn Văn
2/1/2021
Gởi BBT chùa Adida, Tại sao BBT lại cho đăng những phản hồi không chứng cú bịa đặt? trong khi tôi phản hồi lời văn không nặng nề nhưng có link nói rỏ bộ mặt đê hèn của một số người lợi dụng trang web của chùa Adida để nói bậy nói nhảm? http://chanhtuduy.com/noi-voi-ke-an-chao-da-bat/ và bài http://chanhtuduy.com/cao-dieu-mat-thuy-noi-voi-truong-thanh-long-mat-na-tam-thuc-sao-rot-nhanh-qua-vay/ Nếu đã công tâm thì phải đăng 2 chiều cho mọi người cùng biết. Nếu thấy đủ rồi thì ngưng không cho phản hồi nữa vì nếu không sẽ có người lợi dụng. Trân trọng.
Lê Nhật Anh
1/1/2021
Gửi Cao Kỳ Duyên! Bạn copy lời trên zalo của một tên phản đồ.Tôi nói bạn nghe, hắn ta bị đuổi ra khỏi Viện ITA, vợ hắn bỏ hắn, con cái hỗn láo trộm cắp, hắn đã 60 mà xưng anh em ngọt sớt với một cô gái 20. Chắc u uất với cuộc đời quá nên hắn bị hoang tưởng. Nghĩ cách vu vạ để trả thù, muốn người khác cũng thê thảm như mình chăng?
Nguyen Le
1/1/2021
KHÔNG THẤY BÊN MGSN PHẢN ĐỐI VỀ ĐƯA TIN TÂY PHƯƠNG TỊNH THỔ Mấy hôm theo dõi bàn về kiện câp thì nhiều, còn bàn về mua đất xd Tây phương TT thì ít nhắc
Ngô Đức Hiếu
31/12/2020
Dựa vào các chức năng nói trên, ông Nguyễn Hữu Lợt đã khôn khéo phát lồ những tâm pháp yoga thanh trí, dựa theo các kinh điển phật giáo để đưa vào kiến thức phổ biến và giảng đạo. Xét về truyền bá phật pháp là rất tốt đó là quyền tự do tín ngưỡng của mỗi cá nhân, tuy nhiên điều tôi muốn nói rằng: Đạo sư đã dựa vào kiến thức phật học rồi phổ biến nhưng lại có mục tiêu thu nạp hội viên để thu nhiều các loại phí (chủ yếu là mong được tự nguyện cúng dường) và làm cho nhiều hội viên đang hoang tưởng mình đang gặp 1 vị đạo sư, mình đang được quy y một bậc đạo sư thầy của trời người, một bậc trí tuệ đắc đạo. Đây mới là vấn đề cần bàn và đặt ra những câu hỏi? tại sao vị đạo sư Nguyễn Hữu Lợt lại tinh vi đến vậy. MƯỢN ĐẠO TẠO ĐỜI.
Nguyễn Tất Kiên (không phải Tất Kiểm nhé)
31/12/2020
Viện ITA không hề có hoạt động tâm linh, hoạt động tôn giáo, hoạt động Phật pháp, mà chức năng vẫn chốt là Tập hợp các nhà khoa học, các chuyên gia có kinh nghiệm và cán bộ có trình độ chuyên môn trong nghiên cứu phát triển, các dịch vụ khoa học và công nghệ về lĩnh vực tâm lý và yoga để khai thác tài nguyên trí tuệ và cải thiện sức khỏe, đời sống tinh thần con người. chứ không được phép tuyển dụng, thu nạp các tín đồ vào để quy y Thầy Phật Pháp Tăng. 3.Theo điều 2 trong Quyết định thì Viện ITA đã đăng ký chứng nhận CHỨNG NHẬN HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC do BỘ KHOA HỌC cấp số A-1890 cấp lại lần 2 ngày 16/10/2020 Chức năng gồm: -Nghiên cứu khoa học về tâm lý học và yoga để khai tác tài nguyên trí tuệ con người bao gồm: những vấn đề lý luận, thực tiễn về tâm lý giáo dục, tâm lý giới tính, tâm lý xã hội, tâm lý các độ tuổi, tâm lý học về quản lý và kinh doanh - Tư vấn, phản biện khoa học, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học và đào tạo, phổ biến kiến thức trong lĩnh vực nghiên cứu nêu trên.
Cao Kỳ Duyên
31/12/2020
THẦY TÀ (TT) THINLEY NGUYÊN THÀNH LÀ AI? Chào các em, vì tên thầy tà (tt) đê tiện, xảo trá cung cấp số điện thoại của anh trong đơn ngu dốt trên trang xú uế của hắn nên nhiều người liên hệ muốn tìm hiểu nên anh tóm tắt để mọi người hiểu rõ về tên tt này. (anh tách ra làm 3 phần để post) Phần 1 Tt ăn cắp giáo pháp trong kinh điển xào nấu và cho là "phát kiến" của tt và tự nhận là tổ sư sáng lập dòng "yoga tối trí" dựa trên nền tảng giáo lý Phật đà chứ không phải hoạt động tôn giáo nhưng học trò thực hành nghị quỹ tụng niệm do tt biên soạn toàn lấy trong kinh điển. Mọi hoạt động của tt là hoạt động tôn giáo của đạo Phật và tt tận dụng kiếm tiền qua các hoạt động đó: tt làm lễ quy y để lấy tiền, có thời gian được học trò giàu có quy y cúng dường nhiều nên tt hoang tưởng nói "bây giờ những ai được tôi làm lễ quy y rất khó phải 10 triệu trở lên tôi mới làm lễ quy y"!! (theo như các em kể thì bây giờ tt phải quy y không lấy tiền để làm màu vì chỉ có những người không biết là tt mới dám để tt quy y vì tt còn chưa biết tt chết sẽ về cõi nào); tt thường tổ chức pháp sự, pháp hội giảng pháp của đạo Phật để lấy tiền cúng dường; tt gợi ý cúng dường "bậc đạo sư" để được hanh thông để lấy tiền; tt lừa đảo xây dựng Tây phương tịnh thổ (cõi cực lạc ở thế gian) để lấy tiền; tt phát lồ ra "heo đất"đại diện cho tt ₫ể hàng ngày học trò cúng dường cho heo để tích lũy công đức về Tây Phương cực lạc để lấy tiền; tt kêu nộp tiền lệ phí trang mạng và cúng dường trang mạng (pháp bảo) hàng tháng để lấy tiền; tt bán sách ế của tt biên soạn còn xót lại bị mối mọt để lấy tiền mặc dù học trò đã có rồi mà tt xảo trá gọi là thỉnh pháp bảo của tt (tt nói khi chết tt không để lại những hạt xá lợi nhưng sách tt biên soạn từ các nguồn trong kinh điển mà tt xảo trá là tác phẩm tâm linh của tt để lại là pháp bảo của tt)??!! Phần 2 Để tránh bị cho là hoạt động tôn giáo trái phép lừa đảo kiếm tiền nên tt đã nhờ học trò thân cận ở miền Bắc (tt nói học trò này mượn tt 100 triệu làm ăn không biết bao giờ mới thu hồi lại được) để chạy chọt xin thành lập viện thuộc Liên hiệp khoa học và kỹ thuật Việt Nam, hằng năm gần Tết âm lịch tt gọi điện cho học trò này đại diện tt đem bao thư đến những nơi mà nhờ cậy để biếu xén để đền ơn (tra trên google sẽ thấy: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam gồm 134 hội thành viên trong đó có 74 hội ngành toàn quốc và 60 liên hiệp hội địa phương. Ngoài ra, trong hệ thống của Liên hiệp Hội Việt Nam còn có hơn 500 đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo được thành lập theo Nghị định 81; 192 tờ báo, tạp chí, bản tin, đặc san, trang tin, báo điện tử). Qua đó thấy chức năng và hoạt động của Liên hiệp khoa học và kỹ thuật Việt Nam rất đa dạng nhưng không hề có hoạt động tôn giáo. Tt luôn tự hào nói trang xú uế của tt là đã tà xây chánh, bài trừ mê tín, luôn theo đúng quỹ đạo chánh pháp Phật đà nhưng thực tế tt luôn làm những điều ngược lại với những gì đã nói: tt ruyền bá mê tín làm cho học trò u mê mù quáng đến cuồng tín và tt phỉ báng Phật pháp. Tt truyền bá mê tín với sự trợ giúp đắc lực của các công công ăn theo (những công công này được tt cho mượn tiền hoặc được tt giúp đỡ bằng tiền nên hết lòng bênh vực tt mà những đồng tiền này từ lừa đảo và mua bán tâm linh mà có). Bằng "50 kệ tụng sùng kính đạo sư" không đúng giáo lý của Đức Phật, tt đã làm tê liệt ý thức của học trò, biến họ thành những con người mù quáng cuồng tín, rập khuôn như nhau, tôn sùng tt như 1 bậc bồ tát dù có bị chửi bới, mạt sát...
Mạnh Cường
31/12/2020
Tôi hoan hỷ khi trang mạng của Chùa Adida và trang mạng của Viện Nghiên cứu Tâm lý học và Ứng dụng Yoga Thanh Trí (phía Thầy Nguyên Thành) để bình luận công khai trong khi trang mạng của Thư viện Hoa Sen thì không! Chưa bàn đến nội dung nhưng từ động thái này của Thư viện Hoa Sen đã khiến tôi cảm thấy có gì đó mờ ám, không công khai minh bạch.
Vũ Nhật Minh
31/12/2020
Tôi thấy trong bài viết Thư viện hoa sen cho rằng "Những điểm bôi xấu khác không cần quan tâm như việc thành lập nhà xuất bản AVF, tham gia các hoạt động văn hóa như ra mắt sách có nghi lễ chào cờ VNCH và bằng cấp giả của người chủ biên". Để công khai minh bạch, đề nghị Thư viện Hoa Sen đăng hình ảnh bằng cấp của người chủ biên? Đề nghị Thư viện hoa sen giải thích về việc có nghi lễ chào cờ mà lại là cờ VIỆT NAM CỘNG HÒA? TẠI SAO KHÔNG DÙNG CỜ ĐỎ SAO VÀNG MÀ LẠI LÀ CỜ VIỆT NAM CÔNG HÒA?
Kanji Tịnh Hải
31/12/2020
Đỗ Mai Hạnh - Trang Huyền Trần gian ơi, để tui nói cho bạn nghe! Thư viện Hoa Sen họ sai be bét ra, khai man, trốn thuế, làm nhiều chuyện khuất tất... Trước đây tôi thấy Mai Hạnh, Trang Huyền cũng đồng tình tác pháp, lật mặt gian trá của họ trên CHANHTUDUY.COM và cả Facebook, mạng xã hội nữa kia mà! Sao nay lại chạy theo mà "bợ đỡ, bưng bê" họ lên đầu dữ vạy! Họ đến cái văn phòng còn không có minh bạch, nữa là Thư viện, nói đến chuyện "con đường NGOẠI GIAO" với chả Bang giao. Giáo hội (Phật giáo Việt Nam) cũng có tư tưởng, lập trường bảo vệ sự đoàn kết dân tộc, thống nhất đất nước vì lợi ích chung của người dân, Tổ quốc chứ họ không phải cái bàn, cái ghế như ý bạn là muốn "bê giáo hội" để mà xử lý Viện ITA, ông Nguyên Thành hay bất kỳ ai đó thực hành Phật pháp, nương theo Trí tuệ nhà Phật (mà không di theo con đường tôn giáo, tín ngưỡng) "theo luật tôn giáo chính phủ". Bạn quên rằng từ ngàn năm giữ nước thời Lý, Trần đã có biết bao Quốc sư (Vạn Hạnh, Tuệ Trung Thượng Sĩ...) và cả những bậc Minh Quân (nhiều vị Vua đời Trần, nhất là Phật Hoàng Trần Nhân Tông) đã ứng dụng Phật pháp, Trí tuệ Phật đà vào trong sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, an dân, trị quốc, đem lại thái bình, thịnh vượng cho muôn dân đó sao!? Trí tuệ Phật đà đâu phải nằm yên trong tôn giáo, tín ngưỡng hay bất kỳ đoàn thể, tổ chức, cá nhân nào! Ngày nay hàng triệu người con Việt và cả nhân loại đều có thể học Phật, tư duy ý nghĩa từ kho tàng Kinh điển, thực hành ứng dụng Phật pháp vào đời sống để mưu cầu hạnh phúc, giải thoát khỏi những đau khổ, bức bách trong đời sống thể chất, tinh thần, tâm linh cho mình, cho người. Lẽ nào họ không được phép, lẽ nào họ phải đi xin phép giáo hội Phật giáo Việt nam hay Ban Tôn giáo Chính phủ? Hay họ phải đến để cầu xin bạn "ĐỖ MAI HẠNH", đến khi bạn vừa lòng, ưng ý thì mới được học, được thực hành Phật pháp? Trí tuệ Phật đà không thuộc sở hữu của riêng Giáo hội PGVN, không của riêng Viện ITA, không phải sở hữu riêng của Hòa thượng, thượng tọa này, hay ông Đạo sư Nguyên Thành này, ông Lạt ma, Rinpoche kia.. Và chắc chắn nó cũng không thuộc về riêng của bạn đâu, Mai Hạnh - Trang Huyền nhỉ!?. Thế nên bạn đừng có cố ý mà "lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia", dân gian người ta gọi là nói trật lất, "trớt quớt" đó!

hình ảnh hình ảnh

» Xem tất cả

Lễ Huý Nhật Năm Thứ 24 Thân Phụ của HT Trụ Trì Chùa A Di Đà (11.4 Canh Tý- 03.3.2020)
Lễ Huý Nhật Năm Thứ 24 Thân Phụ của HT Trụ Trì Chùa A Di Đà (11.4 Canh Tý- 03.3.2020) (84 hình)
Chùa A Di Đà tổ chức cơm chay gây quỹ cứu trợ cháy rừng tại Úc châu (19.01.2020)
Chùa A Di Đà tổ chức cơm chay gây quỹ cứu trợ cháy rừng tại Úc châu (19.01.2020) (47 hình)
ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL. 2563 (25.8.2019)
ĐẠI LỄ VU LAN TẠI CHÙA A DI ĐÀ PL. 2563 (25.8.2019) (71 hình)
Bố Tát Định Kỳ Hàng Tháng của Tăng Đoàn Phật Giáo Sydney (15.07.Kỷ Hợi - 2019)
Bố Tát Định Kỳ Hàng Tháng của Tăng Đoàn Phật Giáo Sydney (15.07.Kỷ Hợi - 2019) (40 hình)
Lễ Vu Lan PL 2563 (2019) tại Chùa Quốc Tế, Darwin
Lễ Vu Lan PL 2563 (2019) tại Chùa Quốc Tế, Darwin (154 hình)
Lịch Sử Đức Phật Bằng Tranh Của Thái Lan Song Ngữ Việt Anh
Lịch Sử Đức Phật Bằng Tranh Của Thái Lan Song Ngữ Việt Anh (62 hình)

Chân Dung Tăng Già Chân Dung Tăng Già

  • Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
    Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
  • Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
    Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
  • Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
    Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
  • Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
    Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
  • Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
    Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
  • Thiền sư Thần y Tuệ Tĩnh
    Thiền sư Thần y Tuệ Tĩnh
  • Quốc sư Phước Huệ (1869 - 1945)
    Quốc sư Phước Huệ (1869 - 1945)
  • Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa, tấm gương sáng Như Lai
    Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa, tấm gương sáng Như Lai
  • Hòa thượng Thích Thiện Hoa Viện trưởng Viện hóa đạo GHPGVNTN cây đại thụ Đạo pháp - Dân tộc
    Hòa thượng Thích Thiện Hoa Viện trưởng Viện hóa đạo GHPGVNTN cây đại thụ Đạo pháp - Dân tộc
  • Tiểu sử Đại lão HT.Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống PGVNTN (1891-1973)
    Tiểu sử Đại lão HT.Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống PGVNTN (1891-1973)
  • Pháp Âm
  • Phim Phật Giáo
  • Âm Nhạc
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Ðại Nạn Trước Mắt, Quay Ðầu Là Bờ 13823
  • Khac Phuc Phien Nao Tap Khi 13694
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P1 9478
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P2 10110
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 1/2 9062
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 2/2 8678
  • An Lạc Từ Tâm 12267
  • Phật Học Vấn Đáp 01, Lý Bỉnh Nam 12335
  • Phật Học Vấn Đáp 02, Lý Bỉnh Nam 11774
  • Phật Học Vấn Đáp 03, Lý Bỉnh Nam 11531
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Buddha - Đức Phật - (tập 55/ 55): Kết thúc phim... 5297
  • Buddha - Đức Phật - (tập 54/ 55): Buddha nhập... 6032
  • Buddha - Đức Phật - (tập 53/ 55): Bữa ăn cuối... 8794
  • Buddha - Đức Phật - (tập 52/ 55): Mogalana và... 5680
  • Buddha - Đức Phật - (tập 51/ 55): Buddha cứu độ... 5676
  • Buddha - Đức Phật - (tập 50/ 55): Vua Ajātasattu... 792
  • Buddha - Đức Phật - (tập 49/ 55): Năm pháp phá... 6698
  • Buddha - Đức Phật - (tập 48/ 55): Tinh xá... 6641
  • Buddha - Đức Phật - (tập 47/ 55): Thiếu nữ mang... 7618
  • Buddha - Đức Phật - (tập 46/ 55): Anan gặp nạn,... 6718
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Mừng Xuân Di Lặc 11297
  • Mùa Xuân Em Đi Lễ Chùa 11337
  • Tổng hợp Nhạc ThiềnThiền - Tĩnh Tâm - An Nhiên 12406
  • Dòng Sông Tôi Gọi Tên Em 11691
  • Một Chuyến Giả Từ 11224
  • Nối Một Nhịp Cầu 12462
  • Vẫn là Em Thơ 11872
  • Chú Cuội Dỗi Hờn 4628
  • Quê Hương Nguồn Cội 11664
  • Như Giọt Sương Đêm 13288
  • [ Xem tất cả ]

Từ điển phật giáo Từ điển phật giáo

  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Thượng
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Hạ
  • Từ Điển Pháp Số Tam Tạng
  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
  • Từ Điển Thiền Tông Hán Việt

lời vàng ý ngọc

  • NHỮNG CÂU ĐÁNG SUY GẪM
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY
  • 10 điều sau là cốt lõi hạnh phúc
  • Lời hay ý đẹp
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ CUỘC SỐNG
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (9)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (8)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (7)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (6)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (5)

thư viện sách

Mi Tiên Vấn Ðáp
Biên Niên Sử Thiền...

lịch âm dương

Kênh truyền hình phật giáo

Nhạc Phật Giáo Truyền hình Srisambodhiuk Truyền hình Sen Việt
Truyền hình DahamgaganaTv Truyền hình Shraddha Dhamma and Meditation Internet TV
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia - Tel: (+02) 87046317
Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com
Copyright © 2014 Chùa A Di Đà. All Rights Reserved. Powered by BizMaC