• http://www.
  • http://www.
  • http://www.
chuaadida.com
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia
  • Tin Phật Giáo
    • Phật Giáo Úc - Tân Tây Lan
    • Phật Giáo Với Xã Hội
    • Tin Viên Tịch & Tưởng Niệm
  • Sinh Hoạt Chùa A Di Đà
  • Phật Pháp
    • Nghi Lễ
    • Giáo Lý
    • Bồ Đề Tâm
  • Lịch Sử Phật Giáo
    • Nghiên Cứu Phật Giáo
    • Nhân - Vật
    • Phật - Bồ Tát - Thánh Chúng
  • Tam Tạng Kinh Điển
    • Tranh Phật Giáo
    • Sách - Truyện Tích
    • Những Lời Phật Dạy
  • Chuyên Đề
    • Xuân Cửa Thiền
    • Phật Đản - An Cư
    • Vu Lan
    • Pháp Khí
  • Văn Hóa Phật Giáo
    • Thi Ca - Châm Ngôn - Sáng Tác
    • Kiến Trúc
    • Tự Viện
  • Môn Phong Pháp Phái
    • NGỮ LỤC
    • Giai Thoại Nhà Thiên
    • Tổ Sư
Thông tin liên hệ

Tel: (+02) 87046317

Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com

chuaadida.com Kính chào chư Tôn đức, Quí nam nữ Phật tử, Quí thiện trí thức gần xa, Kính chúc Qúy vị An Lành - Phát nguyện: Nổ lực tinh tấn tu hành giải thoát thân tâm khỏi vòng sanh tử. KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC, QUÍ NAM NỮ PHẬT TỬ, QUÍ THIỆN TRÍ THỨC, QUÍ ĐỘC GIẢ GẦN XA, THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ KIẾT TƯỜNG NHƯ Ý
Tìm
  • Trang chủ
  • Lịch Sử Phật Giáo

Phong trào Phật giáo Theravāda ở Nepal (1)

Chùa A Di Đà | 25/3/2020 | 0 Bình luận

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh ở Lumbini (Lâm-tỳ-ni), địa danh thuộc lãnh thổ Nepal ngày nay.


Lumbini, Nepal

Bối cảnh
 
Lumbini tọa lạc về phía Tây nam Nepal, gần biên giới Ấn Độ. Vào thế kỷ VI tr.TL, khi Đức Phật đản sinh, Lumbini tọa lạc ở biên giới giữa hai nước Cộng hòa Shakya và Koliya. Những di tích khảo cổ ở Kapilavastu và Devadaha, kinh thành của hai nước Cộng hòa này, vẫn còn rõ nét. Tháp Ramagama ở Nepal là ngôi tháp duy nhất trong số tám ngôi tháp mà xá-lợi Phật được an trí trong đó vẫn còn nguyên, trong khi hoàng đế Asoka (272-232 tr.TL) đã cho mở tất cả bảy ngôi tháp kia để phân bổ xá-lợi đến hàng ngàn ngôi tháp xây khắp Ấn Độ.
 
Vào thời Đức Phật Thích Ca, vua Vidudabha của vương triều Kosala ở phía Nam nước Cộng hòa Sakya đã xâm chiếm Kapilavastu và sát hại những người Shakya (Theo Huyền Trang, con số là 10.000 người). Nhiều người Shakya đã trốn thoát đến thung lũng Kathmandu. Vào thời đó, người dân bản địa của thung lũng Kathmandu là những người chăn cừu. Những người Shakya đã du nhập vào việc trồng lúa và văn hóa thành thị theo truyền thống Shakya. Khu định cư đầu tiên được đặt tên là Koliyagrama mà nó có nghĩa rằng dân số Koliya có thể chiếm lĩnh cộng đồng định cư. Mulasarvastivada (Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ) miêu tả về tình trạng sinh sống của những người Shakya ở thung lũng Kathmandu khi Tôn giả Ananda viếng thăm nơi này trở về. Điều này cho thấy rằng Phật giáo đã có mặt ở Kathmandu vào thời Đức Phật. Sự hiện diện của Phật giáo Theravāda ở đây được chứng minh qua các tài liệu là mãi cho đến thế kỷ VIII TL. Bản viết tay cổ nhất được tìm thấy ở Nepal là về một số giới luật bằng tiếng Pāli. Phật giáo Đại thừa mà nó có mặt từ thế kỷ I TL đã tiếp tục với những biến thể và phát triển thành Kim cương thừa của truyền thống Newar.
 
Những đồng bằng phía Nam của Nepal ngày nay là lãnh thổ của người Shakya, Koliya và Videha (một trong những nước Cộng hòa của người Vajji/Bạt-kỳ), ở đó Phật giáo đã được truyền bá một cách tự nhiên vào thời Đức Phật. Rất khó ước đoán Phật giáo Theravāda đã biến mất khỏi những vùng đất này vào thế kỷ nào. Khi Huyền Trang viếng Lumbini vào thế kỷ VII, ông nhìn thấy cả Tăng sĩ Theravāda và Đại thừa ở trong và quanh vùng Kapilavastu, Lumbini và Ramagana.
 
Chỉ vào thập niên 1920, chúng ta mới thấy xuất hiện trở lại những hoạt động của Phật giáo Theravāda ở thung lũng Kathmandu. Kể từ đó cho đến nay, những người theo Phật giáo Theravāda đã hoạt động theo cách thức của một phong trào hồi sinh, duy trì và phát triển Phật giáo ở Nepal. Bài viết này sẽ miêu tả những sự kiện quan trọng của phong trào này và trình bày tình trạng hiện tại và những triển vọng tương lai. Bài viết cũng đưa ra sự phân tích về việc tại sao người Nepal nhiệt tâm với truyền thống Theravāda trong tám thập kỷ qua.
 

Phong trào Phật giáo Theravāda ở Nepal (2)

Phong trào Phật giáo Theravāda ở Nepal (2) 

9/7/2020 | 0 Bình luận

Điều tra dân số vào năm 1981 cho thấy dân số Phật giáo chỉ chiếm 5% trong tổng dân số Nepal. Vào năm 1991, những nhà hoạt động Phật giáo đã tiến hành một chiến dịch vận động về hiến pháp mới của Nepal                                                                                              » Xem thêm

 
Phật giáo Newar
 
Trước khi Phật giáo Theravāda hiện tại du nhập vào Nepal (xa xưa, thung lũng Kathmandu được gọi là Nepal), những người Newar ở thung lũng này thực hành theo Phật giáo Newar. Phật giáo Newar là một biến thể của Theravāda, Đại thừa và Kim cương thừa. Hình thức Phật giáo này cũng chứa đựng những yếu tố của Mật giáo Hindu. Phật giáo Newar đã duy trì việc thực hành trong số những cộng đồng người Newar ở thung lũng Kathmandu trong nhiều thế kỷ và phát triển thành tông phái của riêng mình mà nó truyền kiến thức và sự thực hành qua các thế hệ. Các tu sĩ được gọi là Vajracharya, và những người quản lý tu viện thì hầu như là người Shakya, còn những cộng đồng khác (nông dân, thợ thủ công, thương nhân…) là những người tại gia. Hầu hết các tu viện là đất do hoàng gia và thương nhân hiến cúng. Những người Newar thịnh vượng nhờ vào việc buôn bán với Tây Tạng, đất đai thung lũng màu mỡ và các ngành thủ công nghiệp có tay nghề cao. Hầu hết mọi sự kiện văn hóa ở thung lũng đều gắn liền với những nghi lễ Phật giáo Newar. Cộng đồng Newar là xã hội tự trị và tự quản.
 
Những vị vua từ thế kỷ XIV trở về sau là những người Hindu. Jayasthiti Malla (1382) đã sáp nhập hệ thống đẳng cấp vào những người Newar. Những tu sĩ độc thân bị bắt hoàn tục, buộc kết hôn và theo một hệ thống đẳng cấp. Những người Newar đã đổi mới Phật giáo Newar bằng việc pha trộn Phật giáo Theravāda, Đại thừa và Kim cang thừa lại với nhau và khéo léo xen nhiều vị thần Hindu vào hệ thống các thần và nữ thần của tín ngưỡng Đại thừa và Kim cương thừa. Những người truyền bá Phật giáo Newar chính yếu là những người Vajracharya và Shakya. Những đặc điểm chung của Phật giáo Newar là như sau:
 
1- Những chàng trai của đẳng cấp Vajracharya và Shakya thọ giới làm Sa-di (Samanera) ở trong những tu viện tư gia và ở đó bốn ngày, giữ một vài giới đơn giản như ăn chay và tránh tiếp xúc nữ nhân. Họ đến những người thân để khất thực (pindapata) vào thời điểm thích hợp. Việc xuất gia này thiên về nghi thức hơn là một sự hiểu nghiêm túc về ý nghĩa của việc xuất gia thực thụ. Nó trở thành một nghi lễ của một đẳng cấp hơn là một việc theo đuổi đời sống tâm linh thực sự.
 
2- Các cô gái trải qua lễ kết hôn giả khi còn nhỏ, và có 12 ngày tránh xa nam giới khi đến tuổi dậy thì. Cả hai nghi lễ này dành chung cho cả cộng đồng Phật giáo và Hindu.
 
3- Khi những chàng trai cũng như các cô gái khôn lớn và đến tuổi kết hôn, họ bắt đầu một nghi lễ thiền định buổi sáng mỗi ngày. Một mantra sẽ được một vị tu sĩ đọc thầm bên tai 108 lần ở trong một căn phòng thờ thần linh thiêng.
 
4- Sau khi kết hôn, cặp đôi trải qua quá trình huấn luyện sâu hơn về thiền và việc tuân giữ các luật lệ. Những bức tranh Tantrik Phật giáo, mà nó hiện là những món quà lưu niệm thường được những khách du lịch phương Tây mua, là những tài liệu huấn luyện.
 
5- Những người đàn ông Vajracharya trải qua việc huấn luyện bổ sung về trách nhiệm tu sĩ (Acha luyagu).
 
Những người Vajracharya và Shakya có vị trí tốt trong xã hội đẳng cấp bởi nhờ việc được thụ phong. Shakya là những người quản lý tu viện giàu có. David Gellner gọi những người Vajarachrya và Shakya là những tu sĩ tại gia Tantrik. Họ sống trong các khu tu viện với đủ các vấn đề của đời sống gia đình. Tu viện không có những tu sĩ độc thân. Ước tính rằng ba phần trăm dân số Nepal thực hành theo Phật giáo Newar.
 
Phật giáo Lạt-ma (Lama)
 
Dân chúng ở những ngọn núi cao thuộc Himalaya theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Mỗi ngôi làng có một tu viện (gumba), và đó là một trung tâm tôn giáo-văn hóa của cộng đồng. Hầu hết các Lạt-ma sống trong tu viện đều lập gia đình. Một số tu viện có Lạt-ma độc thân. Họ thực hành Đại thừa và Kim cương thừa. Những người Tamang và Gurung ở những ngôi làng giữa núi cũng thực hành Phật giáo Lạt-ma với một vài pha trộn Sa-man giáo bản địa. 
 
Hiện nay, với sự phát triển những tu viện Tây Tạng ở thung lũng Kathmandu và sự có mặt của Lạt-ma Tây Tạng ở Nepal, Phật giáo Lạt-ma thuộc tất cả các giáo phái đang phát triển mạnh mẽ với việc đào tạo các tu sĩ Lạt-ma trẻ. Tác giả bài viết này không nghiên cứu nhiều về Phật giáo Lạt-ma để thảo luận chi tiết hơn trong bài viết này. Ước tính có 10% dân số Nepal theo Phật giáo Lạt-ma.
 
Phật giáo Lạt-ma không bị sức ép chính trị như Phật giáo ở thung lũng Kathmandu. Họ sống biệt lập và không bị quấy nhiễu bởi vì họ ở bên ngoài sự cai trị của những vị vua Newar. Họ có mặt hầu hết ở những ngọn núi phía Bắc và có những giao thoa văn hóa với Tây Tạng. Khu vực phía Tây của Nepal là vương quốc của những người Khash tách biệt. Những người này cũng theo Phật giáo cho đến thế kỷ XV. Phật giáo Lạt-ma và Phật giáo Newar có sự ảnh hưởng mạnh mẽ vào truyền thống của họ. Một số tàn tích khảo cổ còn lại cung cấp chứng cứ về sự có mặt của Phật giáo ở vùng đất này.
 
Đấu tranh cho việc du nhập Phật giáo Theravāda 
 
Lịch sử du nhập Phật giáo Theravāda đầy những cam go. Vào năm 1769, những vị vua Newar bị đánh đuổi bởi một vị cai trị mới của vương triều Shah, mà dòng dõi của ông này đã tạo nên lãnh thổ Nepal ngày nay bằng việc chinh phục những người cai trị của nhiều lãnh địa nhỏ. Vương triều này tuyên bố Nepal là một nhà nước Hindu và dần dần đàn áp các Phật tử và tu viện của họ. Sau đó đế chế Rama nắm quyền cai trị vào thời kỳ 1846-1950 và đàn áp các Phật tử khốc liệt hơn. Họ cô lập người Nepal với các liên hệ bên ngoài. Dân chúng phải xin giấy phép thông hành để ra vào thung lũng Kathmandu. Những vùng đất thuộc về các tu viện Newar bị những gia đình cai trị cướp lấy để làm cung điện theo phong cách phương Tây. Có hơn 20 cung điện như vậy vẫn còn hiện diện nơi những trụ sở nhà nước hay nơi cư trú tư nhân của con cháu họ.
 
Những cộng đồng Phật tử ở thung lũng Kathmandu là những thương nhân đáng tin cậy ở Tây Tạng. Họ cảm kích sự nhiệt huyết và sự cống hiến của những Lạt-ma Tây Tạng trong việc giữ gìn và thực hành Phật giáo. Những thương nhân này có những cơ sở (trung tâm hỗ trợ) ở Calcutta để mua hàng hóa Ấn Độ xuất sang Tây Tạng. Là những Phật tử, họ tiếp xúc với Hội Mahabodhi, một hội truyền giáo do Anagarika Dhammapala lãnh đạo. 
 
Vào năm 1921, một thanh niên Shakya có tên là Jagat Man Vaidya đến Calcutta để nghiên cứu về thương mại theo một chương trình học bổng của Chính phủ Nepal. Ở đó anh gặp ngài Anagarika Dhammapala và cảm thấy buộc phải kết nối với Dhammapala để truyền bá Phật giáo Theravāda ở Nepal. Anh đã đổi tên thành Dharmaditya Dharmacharya, khoác một loại áo vàng, dốc sức học tiếng Pāli và làm việc cùng với những Phật tử Newar. Năm 1923, anh đến Kathmandu và thành lập Hội Nepal Buddhopasak Sangh (Hội Phật tử cư sĩ Nepal). Anh xuất bản Bauddha Dharma, tạp chí đầu tiên bằng tiếng Nepal Bhasha (thổ ngữ của những người Newar bản địa) vào năm 1925 để đánh dấu dịp lễ Vaishakh Purnima (lễ Vesak). Tạp chí này về sau được xuất bản với tên gọi là Buddha Dharma wa Nepal Bhasha. Vào năm 1926, anh tổ chức lễ kỷ niệm ngày đản sinh, giác ngộ, và nhập diệt của Đức Phật - lễ Vaishakh Purnima đầu tiên ở Nepal.
 
Vào năm 1928, anh tổ chức một hội nghị Phật giáo toàn Ấn Độ ở Calcutta, mà nó tập trung vào tình trạng của các Phật tử ở Nepal. Do vì những hoạt động trong việc hồi sinh Phật giáo ở Nepal, anh không thể dành thời gian cho chương trình đại học của mình và đã trượt kỳ thi. Học bổng của anh bị chính phủ chấm dứt. Anh trở lại Nepal và kết hôn, sống đời sống của một cư sĩ. Môi trường thù địch ở Nepal đã làm tiêu tan việc học hành của anh.
 
Vào năm 1925, tương tự với những sáng kiến của Dharmaditya Dharmacharya, một vị thầy Tây Tạng có uy tín tên là Kyangtse Lama đã đến thung lũng Kathmandu trong một cuộc hành hương khó nhọc bằng việc lễ lạy dọc theo con đường từ Tây Tạng đến Swayambhu mà nó mất bốn năm rưỡi để đến Kathmandu. Ông bắt đầu giảng dạy Phật giáo bằng tiếng Tây Tạng và một người Newar địa phương đã dịch sang tiếng Nepal Bhasha. Việc giảng dạy của ông đã thu hút đông đảo Phật tử Newar. Những người Vajracharya cảm thấy không vui với điều đang xảy ra này khi những tín đồ truyền thống của họ bị cuốn vào trong những đám đông được quy tụ bởi một tu sĩ đến từ nước ngoài. 
 
Họ đã đệ đơn lên văn phòng của Thủ tưởng Rana cáo buộc rằng những người Udaya (đẳng cấp thương nhân Phật giáo) ăn thức ăn dâng cúng từ một Bhote (từ ngữ mang ý ám chỉ những người Tây Tạng), và như vậy hủy hoại quy định đẳng cấp về việc cấm ăn thức ăn từ những đẳng cấp khác. Sau đó, những tu sĩ Vajracharya quyết định không nhận cơm của những người Udaya. Điều này gây nên một sự xung đột lớn giữa những người Vajracharya và Udaya. Một số Udaya mà họ cầu khẩn sự tha thứ cho sai lầm của họ đã được chấp nhận trở lại. Có một số người tham gia sự kiện này vì nó mang lại sự thay đổi trong xã hội. Để giải thoát khỏi sự chuyên chế của những người Vajracharya, những người Udaya này phải tìm kiếm con đường thay thế để giữ vững niềm tin của họ vào Phật giáo. Về sau, Phật giáo Theravāda trở thành lối thoát phù hợp cho những người theo chủ nghĩa cách tân.
 
Tiếp bước những hoạt động phôi thai này, có năm thanh niên Newar với nhiệt tâm cao đã cống hiến cuộc đời để bắt đầu một phong trào phục hưng Phật giáo. Tên của năm người là Nani Kaji Shrestha, Kanchha Shakya, Dalchini Manadhar, Bekha Raj Shakya và Gyan Shakya. Trong đó Nani Kaji Shrestha là người lãnh đạo, còn Gyan Shakya đã thọ giới với một vị Lạt-ma Tây Tạng tên là Tsering Norbu. Nanai Kaji Shrestha trước đó đã thụ phong như một tu sĩ Mahapragya thuộc về một gia đình Hindu và luật của quốc gia không cho phép cải đạo hoặc bỏ đạo. Vào năm 1926, những người Vajracharya ở Kathmandu mà họ đang nỗ lực khẳng định hệ thống phân chia đẳng cấp của họ đối với những người Udaya đã than phiền với chính phủ về sự việc rằng tu sĩ Mahapragya, một vị Hindu từ gia đình Shrestha đã cải đạo sang Phật giáo. Do đó tu sĩ Mahapragya và bốn tu sĩ khác đi cùng với Tsering Norbu bị trục xuất ra khỏi Nepal. Tu sĩ Mahapragya đi đến Tây Tạng và dạy Phật pháp ở đó, nơi ông gặp Kul Man Singh Tuladhar, người truyền giới cho ông với tên gọi Karmashila.
 
Về sau, Mahapragya và Karmashila rời Tây Tạng và đến Ấn Độ, ở đó họ thọ giới lại theo Phật giáo Theravāda và là những Tăng sĩ Theravāda đầu tiên ở Kushinagara dưới sự giảng dạy của Hòa thượng U Chandramani, một Tăng sĩ Miến Điện đang sống ở Kushinaga vào năm 1928.
 
Thầy Pragyananda đi khất thực trên những đường phố Kathamandu lần đầu tiên vào năm 1930. Ông ở tại tịnh xá Kindol theo lời mời của Das Ratna Shahu (về sau là Thượng tọa Dharmaloka) và thuyết giảng ở đó. Thính chúng tham dự những buổi giảng của ông ngày một tăng và điều này khiến chính quyền Rana lo ngại, và vì vậy cho bắt giữ tất cả những thành viên của tịnh xá. Họ bị cầm tù, bị phạt và sau đó được thả. May mắn, thầy Pragnananda (hay Karmashila) ở nơi khác và không bị bắt. Ông tiếp tục hành hương đến Ấn Độ với một số tín đồ. Bốn đệ tử của ông đã thọ giới dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng U Chandramani tại Kushinagara. Họ là Samanera Shasana Jyoti, Anagarika Ratna Pali, Anagarika Dhamma Pali và Anagarika Sangha Pali. Đây là lễ thọ giới cho Ni đầu tiên trong Phật giáo Theravāda ở Nepal hiện đại. Điều này làm tăng thêm sự nhiệt huyết cho việc hồi sinh Phật giáo Theravāda. Nhiều thanh niên Nepal đã xuất gia thọ giới ở Kushinagara. Những Tăng sĩ Theravāda danh tiếng khác là Shakyananda, Dhammaloka, Amritananda, Anurudra, Subodhananda, và Buddhaghosha.
 
Vào năm 1925, Das Ratna Shahu, một thương nhân, cùng với con trai của mình trở về từ Tây Tạng sau khi vợ ông qua đời. Ông ở tại tịnh xá Kindol và dành thời gian cho việc giảng dạy Phật giáo Tây Tạng. Sau đó con trai ông đến Sri Lanka và xuất gia thọ giới theo Phật giáo Theravāda. Das Ratna đã đến Sri Lanka để thăm con trai mình. Ông cũng xuất gia thọ giới Sa-di ở Sri Lanka và có tên là Dhammaloka; và sau khi quay trở về Kathmandu, ông bắt đầu giảng dạy Phật giáo Theravāda ở tịnh xá Kindol. Vào năm 1931, một trong những người theo ông, một người Taladhar cùng đẳng cấp với ông, đã trình báo với chính quyền Rana rằng Das Ratna đang truyền bá tôn giáo chống thần linh trong những người Taladhar. 17 người Tuladhar cùng với Dhammaloka bị phạt và bỏ tù.
 
Trong số họ, có những người đáng chú ý là Dhamma Sahu, Yogbir Singh Kansakar và Chittadhar Hridaya. Ngay sau khi ra tù, Das Ratna Shahu thọ Cụ túc giới theo truyền thống Theravāda tại Kushinagara với Hòa thượng U Chandramani vào năm 1935. Sau đó ông trở về thăm Nepal trong tư cách một tu sĩ nhưng bị bắt ngay lập tức trên đường đến Kathmandu và bị giam sáu ngày, sau đó được phóng thích mà không bị kết bất kỳ tội danh gì. Khi được thả, ông đến cư trú tại tịnh xá Kindol và tiếp tục những hoạt động tôn giáo của mình. Cuối cùng, ông có thể thực hiện những hoạt động tôn giáo một cách tự do ở Nepal. Ông đã thành công trong việc truyền bá Phật giáo Theravāda ở thung lũng Kathmandu. Về sau, ông thành lập chùa Anandakuti, ngôi chùa Theravāda đầu tiên ở Nepal, tại chân ngọn đồi Swayambhu và nó trở thành trung tâm của Tăng-già Theravāda ở Nepal hiện đại.
 
Hòa thượng Amritananda là một học giả Phật giáo nổi tiếng khác và là người tiên phong trong việc phục hưng Phật giáo Theravāda ở Nepal hiện đại. Ông thọ giới với Hòa thượng Chandramani tại Kushinagara vào năm 1936 nhưng bị bắt giam cùng với Hòa thượng Mahapragya tại Bhojpur vào năm 1937. Vào năm 1942, ông từ nước ngoài trở về Nepal sau khi hoàn thành việc học và thuyết giảng theo thỉnh cầu của Hòa thượng Dhammaloka ở Swayambhu vào những tháng an cư mùa mưa. Những bài thuyết giảng của ông tác động mạnh mẽ vào người tại gia và có nhiều người đến nghe ông. Những Tăng Ni khác của Nepal đang học ở nước ngoài cũng đã trở về cùng với ông thuyết giảng ở những nơi khác nhau ở thung lũng Kathmandu. Đây là một bước đột phá lớn trong chính phủ cô lập Rana. Chính phủ Rana vào thời bấy giờ cấm bất kỳ sự tụ tập công cộng nào bởi vì sợ bất ổn chính trị và đòi hỏi cải cách chính trị ở Nepal.
 
Bởi vì những hoạt động tôn giáo này, họ bị bắt giam vào ngày 30 tháng 7 năm 1944 và được đưa đến trước Thủ tướng Juddha Shamsher Jung Bahadur Rana để nghe phán quyết về tội truyền bá Phật pháp. Vị thủ tướng đưa ra những luật lệ nhằm tước đi những hoạt động của giới Phật giáo. Những người không theo những luật lệ này thì được yêu cầu hoặc rời khỏi đất nước, hoặc phải hoàn tục. Tất cả những vị Tăng đáng kính, mà họ tích cực trong việc làm hồi sinh Phật giáo Theravāda ở Nepal, đều từ chối tuân theo mệnh lệnh và một lần nữa bị trục xuất khỏi Nepal. Những Tăng sĩ bị trục xuất vào thời điểm này bao gồm Pragnananda, Dhammaloka, Subhodhananda, Pragnarashmi, Samanera Pragnarasa, Samanera Ratnajyoti, Samanera Agga Dhamma và Samanera Kumara. Những vị Ni thì được phép ở lại trong tịnh xá cho đến hết kỳ an cư.
 
Tiến sĩ Keshab Man Shakya
____________
* Tiến sĩ Keshab Man Shakya tốt nghiệp tiến sĩ từ  Virginia Polytechnic Institute and State University (Viện Bách khoa và Đại học Tiểu bang Virginia), Hoa Kỳ. Ông hiện là Phó Chủ tịch Ủy ban Phát triển Lumbini thuộc Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal. Ông cũng là Chủ tịch của Đảng Newa Rastriya. Ngoài ra, Keshab Man Shakya còn là nhà hoạt động Phật giáo nổi tiếng ở Nepal và là tác giả của một số sách văn học.

Tác giả: Vô Ưu dịch

Bài Liên Quan:

  • Phong trào Phật giáo Theravāda ở Nepal (2)
  • Nepal: Hội Nghị Phật Giáo Quốc Gia Lần Thứ 12

các bài khác

  • Thông Tư GH PG Úc Châu v/v Khẩn Cấp Cứu Trợ Nạn Nhân Hỏa Hoạn Tại Úc 1/1/2020
  • Thông Điệp Vesak 2643 PL 2563 (2019) Của Thủ Tướng Úc Đại Lợi Ông Scott Morrison 27/4/2019
  • Ý nghĩa viên mãn của lễ Tam hợp 26/4/2019
  • Thông Bạch - Thông điệp Phật Đản Vesak Phật Lịch 2563 - dl 2019 24/4/2019
  • Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.1) 18/12/2017
  • Nghiệp, Tái Sinh Và Đau Khổ 30/10/2017
  • Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu 3/9/2017
  • Tác dụng chống ung thư của trà 6/9/2017
  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã về thăm chốn Tổ: tổ đình Từ Hiếu - Huế 4/9/2017
  • Thông Báo Đại Lễ Vu Lan tại Chùa A Di Đà PL. 2561 (2017) 13/8/2017
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *
  
Đại Hội Khoáng Đại Kỳ VII Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan

Đại Hội Khoáng Đại Kỳ VII của Giáo Hội sẽ được triệu tập vào các ngày 4 và 5 tháng 6 năm 2022 tại...

Xem chi tiết

  • Tin xem nhiều
  • Phản hồi
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch

28/9/2014
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân

31/10/2014
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?

5/9/2014
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)

27/8/2014
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu

6/11/2014
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

6/8/2014
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát

6/8/2014
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ

9/9/2014
Toàn cảnh Chùa A Di Đà
Toàn cảnh Chùa A Di Đà

9/9/2014
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập

12/12/2014
Nguyễn Đạt Niệm
11/4/2022
PHẬT ĐẢN LÀ LỄ HỘI TÔN GIÁO TOÀN CẦU THẾ GIỚI ĐƯƠC LIÊN HIỆP QUỐC TÔN VINH .THÌ GHPG VN HIỆN TẠI PHẢI CÓ CHỈ ĐẠO THỐNG NHẤT TỪ CẤP TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP GH CŨNG NHƯ CÁC TỰ VIỆN CẢ NƯỚC PHẢI THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC TỔ CHỨC TẤT CẢ ĐỀU HƯỚNG VÊ CÚNG DƯỜNG NGÀY PHẬT ĐẢN SINH. GH KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG CHO NGÀY PHẬT ĐẢN THÌ GH VỊ CHỦ TỊCH HĐTS PHẢI CHỈ ĐẠO CHO CÁC CẤP GH BẰNG CÔNG VĂN THÔNG BẠCH CHO KỊP MỪNG PHẬT ĐẢN SẮP ĐẾN..
Cuong Nguyen Lam
11/4/2022
Cảm ơn tác giả đã nói lên đúng thực trạng của PG, thật ra hàng Phật tử rất mong mỏi được sống trong không khí Rước Phật trên phố mà giờ đây lại cắt cả lễ Đài ...Trong khi đó lễ Noel không một thông bạch nào từ Hội đồng Giám mục Việt Nam mà chỉ có vị linh mục viết thư đến Học sinh và giáo chức ..nội dung khuyên giáo dân giới thiệu Lễ Niel đến với các bạn và đồng nghiệp của mình. Còn của PG ra văn bản tổ chức lễ Phật Đản ...đôi lúc thiếu cụm từ tổ chức xe Rước Phật và kiệu Phật thì các đơn vị PG tổ chức có nơi bị chính quyền đưa ra bản thông bạch không có nói đến rồi gây khó khăn cho việc tổ chức xe Rước Phật...Chưa kể có năm ở Đăk Lăk, hay huyện Hóc Môn_ TP HCM bị cấm cả trwo cờ PG quanh các con đường quanh chùa. Trong khi đó Noel họ treo đèn, làm hang đá ra đường đầu hẻm và cờ rợp trời mà có ai cấm đâu?
Trọng Tín
11/4/2022
Nên đấu tranh cho ngày phật đản là quốc lễ ... ngày đó toàn dân bắt buộc nghe thuyết pháp...
Tran Le Duyen
24/2/2022

A Di Da Phat Kinh Thua Yeu cau Update dia chi tren mang

Phước mỹ
5/2/2022

Tôi đồng quan ý kiến của bạn, hình này cần phải kiểm chứng lại nguồn gốc, hình này không giống như lời Phật dạy trong kinh điển. Chúng ta không nên phổ biến.

Nguyễn vih
26/1/2022
Tôi cảm thấy rất biết ơn
Thích Kà Khịa
17/1/2022

Sai. Phật và Chúa luôn khuyên các môn đồ điều đúng đắn nhất. Dù bất cứ tôn giáo nào cũng dạy hay điều phải. Bài viết đang chia rẻ tôn giáo . Đáng buồn

Phan Xuyến
28/12/2021

Hoan hỷ A MI ĐÀ PHẬT nguyện sanh TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC con cung kính tán thán công đức vô lượng vô biên PS ạ

Hoàng Khoa
28/9/2021

Cúng Đường thế nào, mong Chư Thầy Chùa Giác Nguyên chuyển số Điện thoại để được tư vấn ahj, không biết Cô Quý còn ở Chủa không Ah LH: Ông Khoa- 0896 661552

Nguyễn Trọng Nghĩa
26/8/2021

Phật có trước, chữ Vạn có sau. Chữ Vạn có trước, Hitler có sau. Nếu vì kẻ ra đời sau dùng nó vào việc xấu mà ta cho là nó xấu và bỏ nó, đổi nó thì e là mãi chìm trong sự ngu muội. Các thiên hà xoáy theo cả 2 chiều, chữ Vạn cũng vậy. 2 mặt của chữ Vạn chính là để dạy cho chúng ta rằng đừng chỉ đứng từ 1 phía mà phán xét 1 cách chia rẽ.

hình ảnh hình ảnh

» Xem tất cả

Lẽ Phật Đản PL.2566 nội bộ Chùa A Di Đà 14.4 Nhâm Dần - 2022
Lẽ Phật Đản PL.2566 nội bộ Chùa A Di Đà 14.4 Nhâm Dần - 2022 (37 hình)
Huý Nhật Năm Thứ 26 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Nhâm Dần (5.2022)
Huý Nhật Năm Thứ 26 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Nhâm Dần (5.2022) (166 hình)
Mừng tuổi Thân Mẫu 90 tuổi đầu xuân Nhâm Dần (2022)
Mừng tuổi Thân Mẫu 90 tuổi đầu xuân Nhâm Dần (2022) (89 hình)
Lễ Hằng Thuận chú rể Nguyễn Thành Quang và cô dâu Lâm Thuý Diễm ngày 19.12.2021
Lễ Hằng Thuận chú rể Nguyễn Thành Quang và cô dâu Lâm Thuý Diễm ngày 19.12.2021 (51 hình)
Hình Trường Hạ Thiên Ấn - Sydney ngày 26.6.2021
Hình Trường Hạ Thiên Ấn - Sydney ngày 26.6.2021 (89 hình)
Hình Trường Hạ Thiên Ấn - Sydney ngày 25.6.2021
Hình Trường Hạ Thiên Ấn - Sydney ngày 25.6.2021 (41 hình)

Chân Dung Tăng Già Chân Dung Tăng Già

  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
    Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
  • Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
    Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
  • Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
    Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
  • Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
    Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
  • Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
    Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
  • HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979)
    HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979)
  • Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
    Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
  • Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
    Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
  • Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
    Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
  • Pháp Âm
  • Phim Phật Giáo
  • Âm Nhạc
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Ðại Nạn Trước Mắt, Quay Ðầu Là Bờ 14531
  • Khac Phuc Phien Nao Tap Khi 14890
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P1 10934
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P2 11035
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 1/2 10178
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 2/2 9535
  • An Lạc Từ Tâm 13618
  • Phật Học Vấn Đáp 01, Lý Bỉnh Nam 13405
  • Phật Học Vấn Đáp 02, Lý Bỉnh Nam 12985
  • Phật Học Vấn Đáp 03, Lý Bỉnh Nam 12099
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Buddha - Đức Phật - (tập 55/ 55): Kết thúc phim... 6221
  • Buddha - Đức Phật - (tập 54/ 55): Buddha nhập... 6978
  • Buddha - Đức Phật - (tập 53/ 55): Bữa ăn cuối... 10175
  • Buddha - Đức Phật - (tập 52/ 55): Mogalana và... 6912
  • Buddha - Đức Phật - (tập 51/ 55): Buddha cứu độ... 6527
  • Buddha - Đức Phật - (tập 50/ 55): Vua Ajātasattu... 1315
  • Buddha - Đức Phật - (tập 49/ 55): Năm pháp phá... 7551
  • Buddha - Đức Phật - (tập 48/ 55): Tinh xá... 7603
  • Buddha - Đức Phật - (tập 47/ 55): Thiếu nữ mang... 8868
  • Buddha - Đức Phật - (tập 46/ 55): Anan gặp nạn,... 7729
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Mừng Xuân Di Lặc 13477
  • Mùa Xuân Em Đi Lễ Chùa 12789
  • Tổng hợp Nhạc ThiềnThiền - Tĩnh Tâm - An Nhiên 13137
  • Dòng Sông Tôi Gọi Tên Em 12842
  • Một Chuyến Giả Từ 12696
  • Nối Một Nhịp Cầu 13539
  • Vẫn là Em Thơ 12966
  • Chú Cuội Dỗi Hờn 5547
  • Quê Hương Nguồn Cội 12653
  • Như Giọt Sương Đêm 14193
  • [ Xem tất cả ]

Từ điển phật giáo Từ điển phật giáo

  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Thượng
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Hạ
  • Từ Điển Pháp Số Tam Tạng
  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam

lời vàng ý ngọc

  • NHỮNG CÂU ĐÁNG SUY GẪM
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY
  • 10 điều sau là cốt lõi hạnh phúc
  • Lời hay ý đẹp
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ CUỘC SỐNG
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (9)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (8)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (7)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (6)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (5)

thư viện sách

Vô Biên Pháp Lạc
Những Vì Sao Sáng...

lịch âm dương

Kênh truyền hình phật giáo

Nhạc Phật Giáo Truyền hình Srisambodhiuk Truyền hình Sen Việt
Truyền hình DahamgaganaTv Truyền hình Shraddha Dhamma and Meditation Internet TV
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia - Tel: (+02) 87046317
Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com
Copyright © 2014 Chùa A Di Đà. All Rights Reserved. Powered by BizMaC