• http://www.
  • http://www.
  • http://www.
chuaadida.com
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia
  • Tin Phật Giáo
    • Phật Giáo Úc - Tân Tây Lan
    • Phật Giáo Với Xã Hội
    • Tin Viên Tịch & Tưởng Niệm
  • Sinh Hoạt Chùa A Di Đà
  • Phật Pháp
    • Nghi Lễ
    • Giáo Lý
    • Bồ Đề Tâm
  • Lịch Sử Phật Giáo
    • Nghiên Cứu Phật Giáo
    • Nhân - Vật
    • Phật - Bồ Tát - Thánh Chúng
    • tư liệu phật giáo
  • Tam Tạng Kinh Điển
    • Tranh Phật Giáo
    • Sách - Truyện Tích
    • Những Lời Phật Dạy
  • Chuyên Đề
    • Xuân Cửa Thiền
    • Phật Đản - An Cư
    • Vu Lan
    • Pháp Khí
  • Văn Hóa Phật Giáo
    • Thi Ca - Châm Ngôn - Sáng Tác
    • Kiến Trúc
    • Tự Viện
  • Môn Phong Pháp Phái
    • NGỮ LỤC
    • Giai Thoại Nhà Thiên
    • Tổ Sư
Thông tin liên hệ

Tel: (+02) 87046317

Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com

chuaadida.com Kính chào chư Tôn đức, Quí nam nữ Phật tử, Quí thiện trí thức gần xa, Kính chúc Qúy vị An Lành - Phát nguyện: Nổ lực tinh tấn tu hành giải thoát thân tâm khỏi vòng sanh tử. KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC, QUÍ NAM NỮ PHẬT TỬ, QUÍ THIỆN TRÍ THỨC, QUÍ ĐỘC GIẢ GẦN XA, THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ KIẾT TƯỜNG NHƯ Ý
Tìm
  • Trang chủ
  • Lịch Sử Phật Giáo
  • Nghiên Cứu Phật Giáo

Kinh nghiệm nội tâm & ngôn ngữ

Chùa A Di Đà | 26/6/2019 | 0 Bình luận

Tự chứng, tự ngộ có thể xảy ra được là nhờ vào sự hiện hữu của Như Lai tạng (Tathāgata-garbha) trong tâm mỗi chúng sinh. Tạng (garbha) theo nghĩa đen là “thai” hay “một cái gì đó chôn dấu bên trong”, nó có nghĩa là chủng tử (hạt giống) của Như Lai, từ đó sinh ra sự toàn giác.


Ngôn ngữ luôn mang tính phân biệt, Ảnh minh họa

Tuy nhiên, tạng này thường bị che lấp dưới những lớp vỏ của phân biệt vọng tưởng (parikalpa hay vikalpa) và chấp trước phi lý (abhiniveśa). Vọng tưởng phân biệt được sinh ra do bởi không thấy được chư pháp y như thực (yathābhūtam), nghĩa là, không chịu sự chi phối của nguyên lý sai biệt do tâm tác động lên các pháp ngoại tại. Còn chấp trước là hậu quả không tránh khỏi của vọng tưởng phân biệt, nó gây cho ta đủ thứ sầu bi khổ não. Do đó, Như Lai tạng (Tathāgata-garbha) bản lai thanh tịnh và vô nhiễm, phải được phục hồi trở về trạng thái tự nhiên vô chấp. Nó thường được ví như viên ngọc vô giá bị chôn vùi dưới lớp vải che uế trọc. Bỏ lớp vải che kia đi, viên ngọc rực rỡ kia sẽ chiếu tỏa ánh linh quang tuôn trào lên vạn hữu để vạn hữu hiển lộ y như thực. Sự chiếu diệu giải minh đạt được đó là trạng thái tự chứng và lúc ấy, ta thấy Như Lai tạng rõ ràng như thấy trái amalaka trong lòng bàn tay. Một khi Như Lai tạng được gột sạch hết mọi ô nhiễm thì nó vượt ngoài tầm tư nghì của hàng ngoại đạo và sở đắc của hàng Tiểu thừa. Tác giả kinh Thập địa (Daśabhūmka) cũng như kinh Lăng-già gọi nó là Vô phân biệt trí (avikalpa hay nirvikalpajñāna) hay Chân như trí (Tathatajñāna).

Cho dù cứu cánh có mang tính thực tiễn đi chăng nữa, song kinh Lăng-già vẫn đầy các danh từ trừu tượng, điều đó đã đẩy những người chưa quen thuộc với nền văn học Phật giáo xa khỏi công việc nghiên cứu kinh sâu hơn. Nhưng điều này không thể tránh khỏi, bởi vì cảnh giới mà kinh Lăng-già tuyên thuyết không nằm trong tầm thể hội của ý thức vốn thường bị ngột ngạt bởi các khái niệm đối nghịch mâu thuẫn lẫn nhau. Về điểm này, lập trường kinh rất rõ ràng minh bạch khi thuyết rằng kẻ nào còn bám víu, chấp trước vào ngôn từ thì sẽ không thể hội được chân lý[1] (tattvam) và “cảnh giới thù thắng vượt ngoài ngôn thuyết và phân tích”[2]. 

Quả thực trong kinh, Đức Phật nhắc nhở không mệt mỏi cho ta một điều rằng: ngôn ngữ quá nghèo nàn để mô tả đúng cảnh giới tự chứng. Ðiều này nằm trong chính bản chất của ngôn ngữ. Ngôn ngữ luôn mang tính phân biệt, khi ta đề cập đến vật này thì nó phải được phân biệt với các vật khác, như thế là đã giới hạn nó trong một dung độ hay trình hạn nào đó. Còn giây phút tự chứng tối thượng thì không bị ước thúc và biện biệt dưới bất kỳ hình tướng nào, có lẽ cách duy nhất để diễn tả nó là nói “Cái đó”, hoặc trừu tượng hơn, là “Như Như” (Tathatā), song làm như thế cũng vẫn là vọng chấp (prikalpa) và làm méo mó khái niệm đó đi. Chừng nào chúng ta vẫn còn y nhiên là chúng ta, còn bị trói buộc vào các đòi hỏi của cuộc sống vật chất, và các yêu cầu tự nhiên của suy tư luận lý thì ngôn ngữ là điều không thể tránh khỏi. Và cho dẫu chúng ta không dùng ngôn ngữ đi nữa thì vẫn phải, bằng cách này hay cách khác, nhờ đến các điệu bộ và chuyển động của vài bộ phận trên cơ thể[3]. 

Như kinh Lăng-già nhận xét, trên khắp thế gian, không thiết yếu phải sử dụng ngôn ngữ mới truyền đạt được tư tưởng và cảm xúc, bởi vì ở một vài cõi Phật, Đức Phật chỉ cần giáo hóa bằng cách nhìn, hoặc bằng cách chau mặt, nhướng mày, hoặc mỉm cười, hoặc tằng hắng hoặc bằng các cử động khác. Ngôn ngữ minh bạch không phải là điều thiết yếu tuyệt đối trong sự giao dịch giữa loài người. Kinh chép rằng trong non nước của Phổ Hiền Bồ-tát (Samantabhadra) chỉ cần nhìn suông là đủ để một người chứng được Vô sinh pháp nhẫn (Anutpattikadharmakshānti). 

Ngay trong thế giới này, kinh nói, công việc trong đời sống thường ngày vẫn được tiến hành có hiệu quả giữa loài kiến và loài ong, là những loài không dùng đến ngôn ngữ. Nếu thế thì ta cũng chẳng cần phải ngạc nhiên về việc các Thiền sư chỉ đưa một ngón tay hoặc hét một tiếng vô nghĩa để minh chứng cho cảnh giới thâm huyền nhất mà ý thức con người có thể đạt đến, khi mà trong tâm hồn ta không có gì để sẵn sàng đáp ứng hoặc không có gì được đánh thức dậy để nắm bắt những tia chớp lóe từ một tâm hồn khác, thì cho dù người đó có dùng ngôn ngữ diễn đạt tinh tế đến mức nào đi nữa, tâm hồn ta cũng vẫn hoàn toàn mù lòa trước chân lý. Mặt khác, nếu có một sự hòa thanh tương ứng giữa hai bên thì khi chạm vào bên này sẽ tạo nên sự cộng hưởng ở bên kia. Một năng lực như thế không có trong ngôn ngữ, dù ta không thể không cần đến nó bằng mọi cách.

Ở điểm này, kinh Lăng-già phân biệt rõ ràng giữa văn tự (ruta) và ý nghĩa (artha), và khuyên ta không nên chỉ dựa vào văn tự để hiểu ý nghĩa (y ngữ thủ nghĩa), vì điều đó sẽ phá hủy hoàn toàn Thực Tướng. Các từ chỉ là sự phối hợp giữa âm và tuân theo sự phân tích của tri thức cùng lý luận. Ngôn ngữ do ngôn từ hòa hợp với vọng tưởng mà thành (vāgakshana-samyoga-vikalpa). Khi ta đàm thoại, ngôn ngữ thoát ra từ khẩu cái giữa hai hàm răng, hàm, vòm họng, lưỡi và môi. Các biến thái, cách chia động từ, cùng các thêm thắt tu từ và ngữ pháp được phát sinh tùy theo vọng chấp phân biệt (vikalpa) và tập khí (vāsanā) [4] của người nói. Còn ý nghĩa (artha) là sức nội quán sở đắc trong tự chứng khi ta tạo ra được, trên đường đi đến Niết-bàn, sự chuyển y (parāvritta)[5] trong phần sâu thẳm nhất của ý thức được gọi là A-lại-da thức (Ālayajñāna). 

Ðể đạt được sức nội quán này, ta phải ẩn một nơi cô tịch và do kiên trì tu tập thiền quán, trí Bát-nhã (Prajña) hoặc Tự giác (svabudhi) sẽ bừng sáng lên từ dưới lớp tập khí (vāsanā) của tư tưởng, cảm xúc và hành động được tích lũy từ vô thủy. Ý nghĩa (artha), được liễu chứng như thế trong tận cùng ý thức, là một cái gì đó mà không một sự kết hợp nào của giác quan lại có thể diễn đạt tương xứng với kinh nghiệm này. Nhưng cũng như tìm một vật gì đó trong bóng tối thì ta phải nhờ đến ngọn đèn[6], cuối cũng ý nghĩa phải được lãnh hội bằng phương tiện ngôn ngữ, ít nhất nó phải có khuynh hướng như thế. Sự thấu triệt mối tương quan giữa văn tự (ruta) và ý nghĩa (artha) sẽ là điều cần thiết ngôn ngữ nếu ta muốn biết bản chất của thánh trí tự chứng (svapratyātmajñāna).

Sự tương quan giữa ngôn ngữ và ý nghĩa, hoặc giữa văn từ (akshara) và thực tướng (tattvam hoặc tathāvam), hoặc giữa ngôn thuyết (deśana) và chân lý (siddhānta), cũng giống như sự tương quan giữa ngón tay và mặt trăng. Cần phải có một ngón tay để chỉ mặt trăng nhưng không nên chấp ngón tay làm mặt trăng. Nếu ta chấp văn tự (aksara) hoặc ngôn ngữ (ruta) hoặc ngôn thuyết (deśana) làm chính tự thân của thực tại thì điều đó cũng gây nên các hậu quả tai hại tương tự. Những kẻ nào không thể rời mắt được khỏi đầu ngón tay sẽ không bao giờ liễu ngộ được đệ nhất nghĩa đế (paramārtha) của các pháp[7]. Lại cũng giống như nuôi một đứa bé bằng thức ăn không nấu, sẽ quá trễ để cứu sống nó khi nó đã gục chết trước sự nuôi dưỡng dại dột của bà mẹ kia. Những ai tu tập và hành trì giáo lý Phật giáo nên phân tích điểm này cho rõ ràng. Lẽ dĩ nhiên chúng ta sẽ không biết được nội dung của Phật pháp nếu như ta không có sự hội thông với ngữ ngôn văn tự. Văn tự rất cần thiết, nhưng khi không có sự tương ưng giữa văn và ý thì ngôn thuyết tự nó sẽ trở nên vô nghĩa. Suốt cuốn kinh Lăng-già luôn luôn nhắc nhở rằng Như Lai không thuyết các pháp đọa vào văn tự (đọa văn tự pháp 墮 文 字 法 aksarapatita), do đó Phật cùng các bậc pháp sư tuyên bố rằng: Như Lai chưa từng nói một lời nào dù để trả lời hay thuyết pháp trong suốt quãng đời từ khi chứng ngộ cho đến lúc nhập Niết-bàn”[8]. Ý đó có nghĩa là “Ðừng chấp vào ngôn ngữ văn tự.” (Na deśanā-ruta-pāṭhā ‘bhiniveśatam). Bởi vì “dharmo naira ca śesito bhagavatā pratyātmavedyo yataḥ”[9].

Ta phải xem văn tự, trong mức độ tương quan với ý nghĩa, như ánh trăng trong nước. Ánh trăng vẫn có đấy, song chính vầng trăng không đi vào (apravishtam) trong nước, nhưng cũng không được xem như trăng không có chút tương quan (nirgatam) nào với nước, bởi vì cũng có một chút gì đó trong nước phản chiếu lại vầng trăng[10]. Chỉ cần chúng ta đừng để mình rơi vào thói quen bàn suông một cách hời hợt về thực nghĩa. Ðây là lời cảnh cáo của kinh Lăng-già: “Yathārutār-thābiniveśasanidhau na prapatata”[11] . 

____________________________

* Bản dịch được thực hiện theo nguyên tác tiếng Anh Studies in Laṅkāvatāra Sutra, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., New Delhi, 1998, của Đại sư Suzuki, các trang  105-110.

(1) “Giống như những người ngu chấp ngón tay làm mặt trăng, cũng thế, những kẻ nào chấp vào văn tự sẽ không hiểu được pháp của ta”.

(2) “Chân lý chứng đắc là cảnh giới giác ngộ thù thắng vượt ngoài ngữ ngôn văn tự và phân biệt, nó đưa đến cảnh giới vô lậu; nó chính là căn cơ của sự chứng ngộ, nó không liên quan gì với trò huyền đàm hý luận của ngoại đạo cũng như của tà đạo, phá hủy luận điểm của ngoại đạo và tà đạo, thì sự chứng ngộ sẽ hiện rõ tự thân”.

(3) Có lẽ tác giả muốn đề cập đến cái mà hiện nay gọi là “ngôn ngữ thân xác” (body language) (N.D)

(4) Vikalpa nghĩa đen là “sai biệt”, “xác định”, “phân biệt”, tiếng Trung Quốc dịch là “phân biệt 分別”, là chức năng đặc biệt của suy tư; còn vasana (tập khí) là từ khó hiểu, bao hàm toàn bộ triết học và tâm lý học của Đại thừa. Trong Anh ngữ không có từ tương đương, nó được dịch là “ký ức: memory”, “năng lực của thói quen: habit energy”, “ấn tượng: impression”. 

(5) Theo bản dịch đời Đường: “Họ [các nhà Tiểu thừa] không hiểu rằng đại Niết-bàn chỉ đạt được thông qua nội chứng, trong đó xảy ra sự chuyển y trong A-lại-da thức, là thức làm điểm tựa cho thế giới ngoại trần.” Tác phẩm Triṁśikāvijñaptikārikā XXIX của Thế Thân cũng nói đến sự chuyển y này. 

(6) “Nhờ vào ánh sáng của ngôn ngữ và phân biệt, Bồ-tát Ma-ha-tát vượt ngoài ngôn ngữ và phân biệt, để đi vào con đường tự chứng”.

(7) “Phàm phu mê chấp vào ngón-tay-chỉ của ngôn ngữ nên đến chết cũng không đạt được pháp vô thượng”.

(8) Ý tương tự cũng được trình bày trong Như Lai bí mật kinh 如 來 秘 密 經 (Tathāgataguhya - Sūtra).

(9) Sūtra-lāmkāra, XII, 2, “Đức Phật không bao giờ thuyết giảng về Chân đế, bởi vì Ngài muốn mọi người phải tự chứng lấy”.

(10) Jalacandra hay Udakacandra: trăng trong nước. Điều này cũng được dùng để phô diễn năng lực của Như Lai tự thị hiện như các môn đồ hình dung, đồng thời cũng biểu tượng hóa bản tính của hiện hữu, xem như chỉ là giả tướng.

(11) "Đừng rơi vào sai lầm vi tế khi chấp vào ý nghĩa như nó được diễn tả trong ngôn ngữ". 

Tác giả: Đại sư Suzuki - Huỳnh Ngọc Chiến dịch 

Bài Liên Quan:

  • Không có hạnh phúc nào bằng sự bình lặng tuyệt đối của nội tâm
  • Tản mạn về năm Mùi
  • 8 ngôn ngữ cổ đại vẫn được sử dụng cho đến ngày nay
  • Biết nhiều ngôn ngữ giúp não bộ nhanh nhạy hơn
  • YÊN LẶNG TRONG NỘI TÂM
  • Chúa Jesus nói tiếng gì?

các bài khác

  • Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.1) 18/12/2017
  • Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu 3/9/2017
  • Thiền là cốt lõi 'thường trụ' của Phật giáo 8/12/2016
  • Nguyên nhân nào làm cho các triều vua đầu đời Trần hưng thịnh? 26/11/2016
  • Niên đại xuất gia, thành đạo Đức Phật Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập 24/1/2015
  • Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân 31/10/2014
  • Hạt Của Chúa Và Chủng Tử Phật 28/9/2014
  • Khương Tăng Hội – Sáng Tổ Thiền Việt Nam 27/9/2014
  • Tinh thần Phật giáo thống nhất: THỐNG HỢP TRONG THANH TỊNH 26/9/2014
  • ĐẠO PHẬT HIỆN ĐẠI NHƯ THẾ NÀO TRƯỚC MẮT NGƯỜI TÂY PHƯƠNG? 26/9/2014
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *
  
Khoá An Cư Kiết Hạ PL.2566 (2022) Trường Hạ Thiên Ấn - Sydney

Khoá An cư Kiết Hạ PL. 2566 của Tăng Đoàn Phật Giáo Tiểu bang Sydney, từ ngày 15.5 Nhâm Dần đến...

Xem chi tiết

  • Tin xem nhiều
  • Phản hồi
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch
Cách tính Năm nhuận Dương lịch và Năm nhuận Âm lịch

28/9/2014
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân
Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân

31/10/2014
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?
Đây có phải hình ảnh ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI không?

5/9/2014
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)
Lời Đức Phật (Kinh Pháp Cú)

27/8/2014
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu
Đức Thế Tôn Mâu Ni là bậc đại hiếu

6/11/2014
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

6/8/2014
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát
Đức Phật A Di Đà và năm vị Bồ tát

6/8/2014
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP CHÙA A DI ĐÀ

9/9/2014
Toàn cảnh Chùa A Di Đà
Toàn cảnh Chùa A Di Đà

9/9/2014
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập
Niên đại xuất gia, thành đạo đức Bổn Sư Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập

12/12/2014
Nguyễn Đạt Niệm
11/4/2022
PHẬT ĐẢN LÀ LỄ HỘI TÔN GIÁO TOÀN CẦU THẾ GIỚI ĐƯƠC LIÊN HIỆP QUỐC TÔN VINH .THÌ GHPG VN HIỆN TẠI PHẢI CÓ CHỈ ĐẠO THỐNG NHẤT TỪ CẤP TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP GH CŨNG NHƯ CÁC TỰ VIỆN CẢ NƯỚC PHẢI THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC TỔ CHỨC TẤT CẢ ĐỀU HƯỚNG VÊ CÚNG DƯỜNG NGÀY PHẬT ĐẢN SINH. GH KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG CHO NGÀY PHẬT ĐẢN THÌ GH VỊ CHỦ TỊCH HĐTS PHẢI CHỈ ĐẠO CHO CÁC CẤP GH BẰNG CÔNG VĂN THÔNG BẠCH CHO KỊP MỪNG PHẬT ĐẢN SẮP ĐẾN..
Cuong Nguyen Lam
11/4/2022
Cảm ơn tác giả đã nói lên đúng thực trạng của PG, thật ra hàng Phật tử rất mong mỏi được sống trong không khí Rước Phật trên phố mà giờ đây lại cắt cả lễ Đài ...Trong khi đó lễ Noel không một thông bạch nào từ Hội đồng Giám mục Việt Nam mà chỉ có vị linh mục viết thư đến Học sinh và giáo chức ..nội dung khuyên giáo dân giới thiệu Lễ Niel đến với các bạn và đồng nghiệp của mình. Còn của PG ra văn bản tổ chức lễ Phật Đản ...đôi lúc thiếu cụm từ tổ chức xe Rước Phật và kiệu Phật thì các đơn vị PG tổ chức có nơi bị chính quyền đưa ra bản thông bạch không có nói đến rồi gây khó khăn cho việc tổ chức xe Rước Phật...Chưa kể có năm ở Đăk Lăk, hay huyện Hóc Môn_ TP HCM bị cấm cả trwo cờ PG quanh các con đường quanh chùa. Trong khi đó Noel họ treo đèn, làm hang đá ra đường đầu hẻm và cờ rợp trời mà có ai cấm đâu?
Trọng Tín
11/4/2022
Nên đấu tranh cho ngày phật đản là quốc lễ ... ngày đó toàn dân bắt buộc nghe thuyết pháp...
Tran Le Duyen
24/2/2022

A Di Da Phat Kinh Thua Yeu cau Update dia chi tren mang

Phước mỹ
5/2/2022

Tôi đồng quan ý kiến của bạn, hình này cần phải kiểm chứng lại nguồn gốc, hình này không giống như lời Phật dạy trong kinh điển. Chúng ta không nên phổ biến.

Nguyễn vih
26/1/2022
Tôi cảm thấy rất biết ơn
Thích Kà Khịa
17/1/2022

Sai. Phật và Chúa luôn khuyên các môn đồ điều đúng đắn nhất. Dù bất cứ tôn giáo nào cũng dạy hay điều phải. Bài viết đang chia rẻ tôn giáo . Đáng buồn

Phan Xuyến
28/12/2021

Hoan hỷ A MI ĐÀ PHẬT nguyện sanh TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC con cung kính tán thán công đức vô lượng vô biên PS ạ

Hoàng Khoa
28/9/2021

Cúng Đường thế nào, mong Chư Thầy Chùa Giác Nguyên chuyển số Điện thoại để được tư vấn ahj, không biết Cô Quý còn ở Chủa không Ah LH: Ông Khoa- 0896 661552

Nguyễn Trọng Nghĩa
26/8/2021

Phật có trước, chữ Vạn có sau. Chữ Vạn có trước, Hitler có sau. Nếu vì kẻ ra đời sau dùng nó vào việc xấu mà ta cho là nó xấu và bỏ nó, đổi nó thì e là mãi chìm trong sự ngu muội. Các thiên hà xoáy theo cả 2 chiều, chữ Vạn cũng vậy. 2 mặt của chữ Vạn chính là để dạy cho chúng ta rằng đừng chỉ đứng từ 1 phía mà phán xét 1 cách chia rẽ.

hình ảnh hình ảnh

» Xem tất cả

Bế mạc KHOÁ AN CƯ KIẾT HẠ PL. 2566 - DL 2022 CỦA TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO TIỂU BANG SYDNEY
Bế mạc KHOÁ AN CƯ KIẾT HẠ PL. 2566 - DL 2022 CỦA TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO TIỂU BANG SYDNEY (40 hình)
Lẽ Phật Đản PL.2566 nội bộ Chùa A Di Đà 14.4 Nhâm Dần - 2022
Lẽ Phật Đản PL.2566 nội bộ Chùa A Di Đà 14.4 Nhâm Dần - 2022 (37 hình)
Huý Nhật Năm Thứ 26 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Nhâm Dần (5.2022)
Huý Nhật Năm Thứ 26 Phật Tử Tâm Biên 10,11.4 Nhâm Dần (5.2022) (166 hình)
Mừng tuổi Thân Mẫu 90 tuổi đầu xuân Nhâm Dần (2022)
Mừng tuổi Thân Mẫu 90 tuổi đầu xuân Nhâm Dần (2022) (89 hình)
Lễ Hằng Thuận chú rể Nguyễn Thành Quang và cô dâu Lâm Thuý Diễm ngày 19.12.2021
Lễ Hằng Thuận chú rể Nguyễn Thành Quang và cô dâu Lâm Thuý Diễm ngày 19.12.2021 (51 hình)
Hình Trường Hạ Thiên Ấn - Sydney ngày 26.6.2021
Hình Trường Hạ Thiên Ấn - Sydney ngày 26.6.2021 (89 hình)

Chân Dung Tăng Già Chân Dung Tăng Già

  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh
  • Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
    Sơ tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh
  • Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
    Thiền sư khai sinh dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh
  • Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
    Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên (1928 - 2021)
  • Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
    Tiểu sử Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) Dịch giả Kinh Vu Lan
  • Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
    Danh Tăng Việt Nam sinh vào năm Tý
  • HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979)
    HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI (1906 - 1979)
  • Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
    Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17
  • Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
    Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963): Người đầu tiên phát tâm đi bộ từ Sa Đéc ra miền Bắc
  • Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
    Thiền sư Bách-Trượng Hoài Hải (720-814)
  • Pháp Âm
  • Phim Phật Giáo
  • Âm Nhạc
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Ðại Nạn Trước Mắt, Quay Ðầu Là Bờ 14571
  • Khac Phuc Phien Nao Tap Khi 14935
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P1 10986
  • Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân P2 11071
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 1/2 10219
  • Phật Học Quần Nghi - Tập 2/2 9693
  • An Lạc Từ Tâm 13665
  • Phật Học Vấn Đáp 01, Lý Bỉnh Nam 13459
  • Phật Học Vấn Đáp 02, Lý Bỉnh Nam 13020
  • Phật Học Vấn Đáp 03, Lý Bỉnh Nam 12141
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Buddha - Đức Phật - (tập 55/ 55): Kết thúc phim... 6274
  • Buddha - Đức Phật - (tập 54/ 55): Buddha nhập... 7033
  • Buddha - Đức Phật - (tập 53/ 55): Bữa ăn cuối... 10279
  • Buddha - Đức Phật - (tập 52/ 55): Mogalana và... 6970
  • Buddha - Đức Phật - (tập 51/ 55): Buddha cứu độ... 6584
  • Buddha - Đức Phật - (tập 50/ 55): Vua Ajātasattu... 1355
  • Buddha - Đức Phật - (tập 49/ 55): Năm pháp phá... 7590
  • Buddha - Đức Phật - (tập 48/ 55): Tinh xá... 7645
  • Buddha - Đức Phật - (tập 47/ 55): Thiếu nữ mang... 8939
  • Buddha - Đức Phật - (tập 46/ 55): Anan gặp nạn,... 7770
  • [ Xem tất cả ]
  • Tên bài Số lượt nghe
  • Mừng Xuân Di Lặc 13650
  • Mùa Xuân Em Đi Lễ Chùa 12842
  • Tổng hợp Nhạc ThiềnThiền - Tĩnh Tâm - An Nhiên 13178
  • Dòng Sông Tôi Gọi Tên Em 12880
  • Một Chuyến Giả Từ 12733
  • Nối Một Nhịp Cầu 13580
  • Vẫn là Em Thơ 13010
  • Chú Cuội Dỗi Hờn 5571
  • Quê Hương Nguồn Cội 12698
  • Như Giọt Sương Đêm 14225
  • [ Xem tất cả ]

Từ điển phật giáo Từ điển phật giáo

  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Thượng
  • Trích lục từ ngữ Phật học Quyển Hạ
  • Từ Điển Pháp Số Tam Tạng
  • Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam

lời vàng ý ngọc

  • NHỮNG CÂU ĐÁNG SUY GẪM
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY
  • 10 điều sau là cốt lõi hạnh phúc
  • Lời hay ý đẹp
  • NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ CUỘC SỐNG
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (9)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (8)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (7)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (6)
  • Những Câu nói không hay nhưng đủ để suy ngẫm (5)

thư viện sách

Vô Biên Pháp Lạc
Những Vì Sao Sáng...

lịch âm dương

Kênh truyền hình phật giáo

Nhạc Phật Giáo Truyền hình Srisambodhiuk Truyền hình Sen Việt
Truyền hình DahamgaganaTv Truyền hình Shraddha Dhamma and Meditation Internet TV
52 Bareena street, Canley Vale N.S.W 2166 Australia - Tel: (+02) 87046317
Email: chuaadida1@gmail.com - chuaadida@ymail.com
Copyright © 2014 Chùa A Di Đà. All Rights Reserved. Powered by BizMaC